1. Rối loạn mọc răng thụ động là gì?
Mọc răng thụ động là một tình trạng bình thường, trong đó viền nướu tụt dần về phía chóp cho tới khoảng mức CEJ sau khi răng đã mọc hoàn toàn. Trong trường hợp viền nướu không giảm xuống mức CEJ, tình trạng này được đặt tên là rói loạn mọc răng thụ động. Bởi vì các mô nướu thất bại trong việc tụt về phía CEJ, răng có vẻ ngắn và vuông (Hình 9). Tình trạng này có thể liên quan đến nhiều răng hoặc một răng biệt lập. Tỷ lệ rối loạn mọc răng thụ động trong dân số nói chung là khoảng 12%. Tình trạng sinh lý của quá trình mọc răng thụ động có thể tiếp tục ngay cả trong những năm 30 tuổi; do đó, chẩn đoán rối loạn mọc răng thụ động phải được thực hiện theo tuổi. Đỉnh xương ổ răng có thể ở mức CEJ hoặc về phía chóp của nó từ 1 đến 2 mm. Chụp X quang song song sẽ giúp xác định mức độ của mào xương ổ răng ở vùng kẽ, và thăm dò xương sẽ xác định level của nó ở mặt trong và ngoài. 1 phân loại của rối loạn mọc răng thụ động được đề xuất bởi Coslet và cộng sự:
• Loại 1A – nhiều nướu sừng hóa với tương quan xương ổ – CEJ bình thường
• Loại 1B — nhiều nướu sừng hóa với mào xương ổ ở ngang CEJ
• Loại 2A – lượng nướu sừng hóa bình thường và tương quan xương ổ – CEJ bình thường
• Loại 2B — lượng nướu sừng hóa bình thường và mào xương ổ ở ngang CEJ
Hiện tượng rối loạn mọc răng thụ động đổi có thể được giải quyết bằng phẫu thuật nha chu. Quy trình phẫu thuật được lựa chọn phụ thuộc vào kiểu mọc răng thụ động.

2. Chẩn đoán rối loạn mọc răng thụ động
Việc thiếu các tiêu chí chẩn đoán rõ ràng đã cản trở các nghiên cứu đánh giá mức độ phổ biến của rối loạn mọc răng thụ động. Hầu hết các tài liệu tham khảo một nghiên cứu của Volchansky & Cleaton-Jones từ năm 1974 đã báo cáo tỷ lệ rối loạn mọc răng thụ động là 12,1%. Gần đây, Nart và cộng sự báo cáo một tỷ lệ cao hơn, 35,8% (29,5% ở nhóm chứng và 42,1% ở nhóm điều trị chỉnh nha), rối loạn mọc răng thụ động. Một giải thích khả dĩ là do sự không đồng nhất trong các tiêu chí chẩn đoán. Volchansky và Cleaton-Jones chỉ chọn những răng có viền nướu nằm cách điểm nối men-xê măng từ 3 đến 4 mm trong khi trong nghiên cứu của Nart, chẩn đoán rối loạn mọc răng thụ động được thiết lập nếu khoảng cách từ viền nướu đến điểm tiếp giáp men – xê măng là ≥ 3mm. Quy trình để chẩn đoán rối loạn mọc răng thụ động bao gồm quan sát lâm sàng, khảo sát lâm sàng phần tiếp giáp men – xê măng và mào xương ổ răng và phân tích hình ảnh X quang. Những điều này sẽ được làm rõ chi tiết hơn ở bên dưới.
3. Quan sát và khám lâm sàng
Kiểm tra ngoài miệng bao gồm đánh giá sự cân xứng trên khuôn mặt và chiều cao, đường viền môi hoặc đường cười, độ dài và độ di động của môi. Bệnh nhân được quan sát ở trạng thái nghỉ và khi cười tự nhiên. Nếu nướu lộ ra quá nhiều khi cười thì cần phải thực hiện các phép đo chẩn đoán thêm. Trong quá trình này, trước hết là đo chiều dài và hoạt động từ gốc mũi đến viền ướt của môi trên. Con số này thường là 20–22 mm ở bệnh nhân nữ và 22–24 mm ở bệnh nhân nam. Nếu nướu lộ ra quá mức chỉ do môi ngắn hoặc tăng động môi, thì không có chỉ định điều trị.
Sau khi khám môi hàm trên, bước tiếp theo là đo thân răng lâm sàng xác định xem thân răng có ngắn hay không (Hình 14). Sterrett và cộng sự thu thập dữ liệu bằng cách sử dụng các mẫu nghiên cứu chỉnh nha từ các bệnh nhân da trắng. Thước kẹp kỹ thuật số được sử dụng để đo chiều rộng gần xa (vuông góc với trục dài) và chiều dài thân chân (song song với trục dài) của răng trên mẫu thạch cao. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng chiều rộng và chiều dài trung bình của thân răng lâm sàng ở bệnh nhân nam lớn hơn đáng kể so với bệnh nhân nữ.

Chiều rộng trung bình của răng đối với bệnh nhân nam và nữ lần lượt là 8,59 và 8,06 mm đối với răng cửa giữa, 6,59 và 6,13 mm đối với răng cửa bên và 7,64 và 7,15 mm đối với răng nanh. Chiều dài răng trung bình của bệnh nhân nam và nữ lần lượt là 10,19 và 9,39 mm đối với răng cửa giữa, 8,70 và 7,79 mm đối với răng cửa bên và 10,06 và 8,89 mm đối với răng nanh. Tỷ lệ chiều rộng / chiều dài thân răng trung bình của bệnh nhân nam và nữ lần lượt là 0,85 và 0,86 đối với răng cửa giữa, 0,76 và 0,79 đối với răng cửa bên và 0,77 và 0,81 đối với răng nanh.
Nghiên cứu của Gillen và cộng sự được thiết kế và tiến hành theo cách tương tự để xác định kích thước trung bình của sáu răng cửa hàm trên ở bệnh nhân 18 đến 35 tuổi và để đánh giá mối quan hệ giữa kích thước giữa các răng và trong cùng 1 răng. Kết quả cũng giống với kết quả của nghiên cứu trước của Sterrett và cộng sự. Monaco và cộng sự cho ra giá trị 11 ± 2 mm đối với thân răng cửa giữa trên lâm sàng. Nếu giá trị dưới 8 mm thì nó được xác định là ngắn. Năm 1999, Robbins đã định nghĩa thân răng lâm sàng ‘ngắn’ là một thân răng có chiều dài dưới 9 mm. Từ dữ liệu ngoại suy từ các tài liệu, một số tác giả đã sử dụng giá trị 10,5 mm cho chiều dài của răng cửa giữa.
Trong một nghiên cứu của Alpiste-Illueca, 123 đối tượng có răng cửa trên rối loạn mọc răng thụ động đã được ghi nhận. Hai tiêu chí chủ quan được sử dụng để chẩn đoán lâm sàng trường hợp rối loạn mọc răng thụ động: thứ nhất, đường viền nướu bị dẹt quá mức; và thứ hai, chiều rộng nền gai nướu không cân xứng so với chiều cao gai nướu. Rối loạn mọc răng thụ động được chẩn đoán khi các tiêu chí sau được đáp ứng: bệnh nhân có thân răng ngắn rõ ràng về mặt lâm sàng, độ sâu túi đáng kể, chiều rộng của nướu sừng hóa, đường nối nướu – niêm mạc, chiều dài của thân răng lâm sàng và sự mòn khớp cắn của răng. Một số tác giả chỉ ra rằng độ sâu thăm dò khe nướu là quan trọng để chẩn đoán rối loạn mọc răng thụ động và cho rằng độ sâu trên 3 mm mà không có các dấu hiệu bệnh lý là dấu hiệu của rối loạn mọc răng thụ động. Trong nghiên cứu của Alpiste-Illueca, không có mối quan hệ nào như vậy được quan sát thấy vì không có bệnh nhân nào có độ sâu túi vượt quá 3 mm, giá trị thường gặp nhất là 1,5 mm. Trong một nghiên cứu của Dolt & Robbins, bước đầu tiên trong quá trình chẩn đoán là phát hiện đường tiếp giáp giữa men và xê măng bằng cây thăm dò (explorer). Nếu đường nối men – xê măng nằm ở vị trí bình thường trong khe nướu, bệnh nhân không chịu quá trình rối loạn mọc răng thụ động. Khi không phát hiện được đường tiếp giáp giữa men với men trong khe nướu, có thể chẩn đoán rối loạn mọc răng thụ động và sau đó sẽ thực hiện “thăm dò xương”. Phần nướu được gây tê và độ sâu túi được ghi lại. Sau đó, đầu cây thăm dò được đẩy qua đáy của khe nướu cho đến khi chạm đỉnh xương ổ và kết quả đo này được ghi lại.
Zucchelli đã nhấn mạnh một số thách thức với cách tiếp cận này là việc thiết lập vị trí của tiếp giáp men – xê măng răng thông qua ‘thăm dò xương’ không dễ dàng ở những bệnh nhân mọc răng thụ động, vì hai lý do: thứ nhất, nướu răng hầu như luôn gắn chặt, với một biểu mô kết nối kéo dài dọc theo bề mặt men răng, gây khó khăn cho việc thăm dò; và, thứ hai, rối loạn mọc răng thụ động thường liên quan đến đỉnh xương ổ mặt ngoài ở ngang hoặc về phía thân răng so với tiếp giáp men – xê măng răng, do đó ngăn cản việc phát hiện tiếp giáp men – xê măng răng, ngay cả khi có túi giả.
‘Thăm dò xương’, dưới gây tê, là kỹ thuật truyền thống được sử dụng để phân biệt giữa các kiểu mọc răng thụ động A và B. Nếu sờ thấy đỉnh xương ổ răng bằng đầu dò mà không phát hiện thấy tiếp giáp men – xê măng, thì có thể chẩn đoán tiểu loại B. Theo Zucchelli, ‘thăm dò’ chỉ có hiệu quả trong một số trường hợp hiếm hoi vì trong đại đa số các trường hợp chỉ cảm nhận được một sự gián đoạn trong quá trình thăm dò dưới nướu và rất khó để phân biệt tiếp giáp men-xê măng với mào xương. Ngoài ra, ngay cả khi phát hiện thấy hai điểm ngắt quãng dưới nướu, rất khó xác định xem khoảng cách giữa chúng là sinh lý (1–2 mm) hay có vấn đề khác.
4. Phân tích hình ảnh
Chụp X quang mặt răng dạng song song (parallel profile radiography), được mô tả bởi AlpisteIlleuca, được sử dụng để xác định kích thước các thành phần răng, có thể đo lường sự khác biệt và mức độ chồng chéo của mọc răng thụ động. X quang này thu được bằng cách sử dụng gutta percha cản quang được đưa vào đáy của khe nướu. Bằng cách này, tác giả có thể so sánh các chẩn đoán lâm sàng và X quang. Người ta kết luận rằng, nướu phủ trên 19% chiều cao thân răng lâm sàng là tương đương với chẩn đoán rối loạn mọc răng thụ động.
Levine & McGuire đề xuất rằng nên sử dụng phương pháp chụp X quang quanh chóp với kỹ thuật song song để thu được thông tin về tiếp giáp men-xê măng và đỉnh xương ổ. Nhiều tác giả sử dụng các số đo X quang để làm hướng dẫn trong quá trình điều trị phẫu thuật. Ví dụ, Zucchelli đã so sánh lâm sàng và ảnh X quang của thân răng (Hình 15) với mục tiêu là để điều chỉnh độ phóng đại rồi tính toán một cách chính xác, đặc biệt là khoảng cách giữa viền nướu và tiếp giáp men – xê măng và giữa tiếp giáp men – xê măng và mào xương (Hình 16). Khi phát hiện thấy sự khác biệt đáng kể (≥ 3 mm) giữa chiều dài thân răng lâm sàng (cạnh cắn đến viền nướu) và chiều dài thân răng chụp X quang (cạnh cắn đến tiếp giáp men – xê măng răng), chẩn đoán rối loạn mọc răng thụ động được xác nhận. Hơn nữa, khi có thể phân biệt được hai đường riêng biệt, một đường viền ở phía thân răng hơn (là tiếp giáp men – xê măng) và một ở phía chóp hơn (là đỉnh xương ổ), thì có thể chẩn đoán đó là tiểu loại A và ghi lại khoảng cách này (Hình 16 và 17). Tuy nhiên, phim X quang quanh chóp không phải lúc nào cũng dễ dàng phân biệt giữa rối loạn mọc răng thụ động tiểu loại A hay B vì trong một số trường hợp, rất khó để phân biệt đỉnh xương ổ cùng với đường tiếp giáp men – xê măng hoặc đường ở phía chóp hơn trên X quang là ở mặt ngoài hay trong (Hình 18).




Batista và cộng sự đề xuất sử dụng CBCT để chẩn đoán và xác định đặc điểm giải phẫu mô cứng và mô mềm của những răng bị ảnh hưởng bởi quá trình rối loạn mọc răng thụ động và đưa ra một phương pháp phẫu thuật kết hợp mới để điều chỉnh dựa trên thông tin thu được bằng cách sử dụng CBCT.
5. Điều trị rối loạn mọc răng thụ động
Phương pháp điều trị rối loạn mọc răng thụ động được mô tả trong y văn chủ yếu là phẫu thuật; không có dữ liệu về điều trị không phẫu thuật đối với rối loạn mọc răng thụ động.
5.1. Giai đoạn điều trị trước phẫu thuật
Hầu hết các nghiên cứu về rối loạn mọc răng thụ động báo cáo rằng liệu pháp ban đầu bao gồm hướng dẫn vệ sinh răng miệng, cạo vôi răng và nạo ‘chân răng’. Rõ ràng là không thể thực hiện nạo ‘chân răng’ để giảm bớt túi giả bởi vì mô bên dưới túi giả là men chứ không phải xê măng hay mô chân răng. Mặt khác, việc nạo vô ý vào thành mô mềm của túi giả có thể gây ra sự co rút mô mềm ở viền, bệnh nhân có thể coi là ‘tụt nướu’ không thẩm mỹ do sự kéo dài của răng khi so sánh với các răng bên cạnh. Rossi và cộng sự quan sát thấy rằng sau khi điều trị ban đầu, viền nướu vẫn còn nằm trên men và ở phía thân răng so với tiếp giáp men – xê măng. Debridement làm giảm viêm, cho phép đánh giá chính xác mức độ của quá trình rối loạn mọc răng thụ động, trong trường hợp không có túi giả. Giai đoạn điều trị trước phẫu thuật nên thực hiện trước bất kỳ điều trị phẫu thuật nào.
5.2. Giai đoạn điều trị phẫu thuật
Sức khỏe mô nha chu, chiều rộng của nướu sừng hóa, vị trí của viền nướu, vị trí của đỉnh xương ổ, vị trí của đường nối niêm mạc – nướu và khả năng điều trị phục hồi là tất cả các yếu tố quyết định cho phương pháp điều trị làm dài thân răng. Garber & Salama cho rằng chỉ có hai lựa chọn điều trị cho các trường hợp rối loạn mọc răng thụ động: thứ nhất, phẫu thuật cắt nướu đơn thuần để bộc lộ giải phẫu trong các trường hợp kiểu 1A; và thứ hai, một vạt toàn phần được định vị lại về phía chóp, có hoặc không có điều chỉnh xương
Loại 1A: phẫu thuật cắt nướu / phẫu thuật tạo hình nướu
Khi xác định được rằng có hơn 1 mm giữa đỉnh xương ổ răng và tiếp giáp men – xê măng răng và chiều cao nướu dính vẫn phù hợp sau khi phẫu thuật (loại 1A), cắt nướu đơn thuần được chỉ định (Hình 19 và 20). Vết rạch ban đầu phải chính xác, đối xứng và dựa theo kiến trúc nướu bình thường, sao cho đỉnh nướu hơi xa so với đường giữa của răng. Để hỗ trợ độ chính xác, vết rạch ban đầu được rạch nhẹ trên nướu ở mức tiếp giáp men – xê măng. Dolt & Robbins cho rằng rất khó để thực hiện chính xác vết rạch ban đầu khi ngồi phía sau bệnh nhân và họ đề nghị ngồi trước mặt bệnh nhân và sử dụng stent nhựa acrylic hoặc nhựa tổng hợp làm máng hướng dẫn phẫu thuật. Kurtzman & Silverstein đề xuất sử dụng vạch đánh dấu màu đen hướng dẫn cho vết rạch ban đầu, cùng với máng phẫu thuật. Sau đó, bác sĩ có thể ngồi phía sau bệnh nhân và hoàn thành đường rạch cắt bỏ nướu có độ dày toàn phần. Một đường rạch thứ hai được thực hiện trên khe nướu của mỗi răng, để lại một phần nướu sẽ được loại bỏ bằng cây nạo nha chu. Các tài liệu cho rằng có thể sử dụng nhiều loại dụng cụ khác nhau để bộc lộ điểm nối men – xê măng và để có được đường viền nướu sinh lý hơn, bao gồm dao mổ, dao điện hoặc laser carbon dioxide. Có thể sử dụng bút phẫu thuật điện lưỡng cực dưới hệ thống bơm rửa để cắt nướu, sau đó bút tạo hình nướu được sử dụng để làm phẳng phần mô ở gai nướu và tạo đường viền tự nhiên hơn. Cuối cùng, một bút đông máu dùng để bịt kín bất kỳ vết chảy máu nào trên bề mặt nướu.


Loại 2A: vạt định vị về phía chóp
Ở loại 2A, chiều rộng nướu sừng hóa là bình thường, và do đó, phẫu thuật cắt nướu có thể loại bỏ quá nhiều nướu bị sừng hóa, để lại niêm mạc xương ổ không lý tưởng. Cách xử trí lý tưởng đối với bệnh nhân loại 2A bao gồm việc định vị lại về phía chóp của dải nướu sừng hóa đến vị trí gần tiếp giáp men – xê măng. Theo Zucchelli, vạt định vị phía chóp là phương pháp điều trị được lựa chọn ở đại đa số bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi quá trình rối loạn mọc răng thụ động với độ dày của xương mặt ngoài tăng lên, cần phải tạo hình xương.
Loại 1 và 2B: vạt định vị phía chóp với phẫu thuật điều chỉnh xương
Khi các quy trình chẩn đoán cho thấy level xương xấp xỉ tiếp giáp men – xê măng, phẫu thuật điều chỉnh được chỉ định. Thủ thuật này thường được kết hợp với một vạt định vị phía chóp, ngay cả khi một số tác giả đề xuất thủ thuật làm dài thân răng thẩm mỹ không lật vạt.
Đường rạch ban đầu có thể được thực hiện như được mô tả cho quy trình cắt nướu, có hoặc không có máng phẫu thuật, hoặc có thể được thực hiện như một đường rạch trong khe nướu. Vị trí của vết rạch phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm chiều rộng của mô sừng hóa, với mô sừng hóa nhiều hơn thì đường rạch về phía chóp hơn; vị trí tiếp giáp men – xê măng / đỉnh xương ổ răng, nếu vị trí này càng về phía chóp thì đường rạch càng sâu; và các tiêu chí về tỷ lệ thẩm mỹ nha khoa, ví dụ như viền nướu của răng cửa bên thấp hơn so với viền nướu của răng nanh và răng cửa giữa (Rufenacht gingival class 1). Theo nguyên tắc chung, vết rạch nên được tạo càng dưới viền nướu và càng có dạng vỏ sò càng tốt. Điều này cho phép vết rạch tái tạo đường viền hình vỏ sò của đường tiếp giáp men – xê măng và cho phép lành thương nguyên phát ở vùng kẽ răng. Một vạt vạt bán phần ở gai nướu và toàn phần ở mặt ngoài được lật. Các vết rạch cắt ngang bề mặt ngoài của mỗi gai nướu, để lại các gai hoàn toàn nguyên vẹn ở vùng kẽ (Hình 21). Thiết kế vạt này bảo tồn chiều cao gai nướu và cung cấp mô cố định để ổn định vạt trong quá trình khâu. Trên thực tế, vì không có yêu cầu sinh học nào đối với việc loại bỏ xương kẽ răng, nên gai nướu kẽ răng mặt ngoài không được lật với vạt. Do đó, cần thận trọng khi lật vạt ngoài, giữ nguyên các gai nướu ở kẽ và mô khẩu cái để không làm ảnh hưởng đến việc cung cấp máu cho các mô này, do đó làm giảm xác suất co rút mô. Một vạt có độ dày toàn phần được lật quá đường nối niêm mạc – nướu, và các vị trí của đường nối men – xê măng và đỉnh xương ổ được xác minh bằng mắt. Phẫu thuật tạo hình xương được thực hiện để giảm độ dày của xương, trong khi phẫu thuật cắt bỏ xương được thực hiện để thiết lập khoảng cách chính xác giữa đường tiếp giáp men- xê măng và đỉnh xương ổ. Lật vạt mặt ngoài cách mào xương 3-5mm về phía chóp và bị ảnh hưởng bởi mức độ tạo hình xương – ví dụ, nếu xương đặc biệt dày, thì chỉ định điều chỉnh xương nhiều hơn và rìa của vạt là về phía chóp hơn. Quá trình mài chỉnh xương được thực hiện bằng cách sử dụng một dụng cụ quay tốc độ cao, chẳng hạn như mũi khoan kim cương hoặc kim loại cacbua tròn. Theo Zucchelli, hầu hết phẫu thuật điều chỉnh xương được thực hiện tại các vùng giữa các chân răng, nhằm tạo ra các bề mặt lõm (Hình 5, 21 và 22) để giúp định vị lại gai nướu mỏng nhằm giảm thiểu sự co rút của mô mềm kẽ răng.

Sự bất đồng giữa các tác giả tồn tại trong số lượng xương cần cắt bỏ để thiết lập khoảng cách chính xác giữa tiếp giáp men – xê măng và đỉnh xương ổ răng. Một số tác giả đề xuất 1 mm trong khi những người khác đề xuất 2 mm, 2–2,5 mm hoặc 3,0 mm. Camargo và cộng sự đề xuất đo kích thước khoảng sinh học trên răng không bị ảnh hưởng bởi quá trình rối loạn mọc răng thụ động. Trong trường hợp rối loạn mọc răng thụ động ảnh hưởng đến tất cả các răng, các tác giả đề nghị đưa ra quyết định theo kinh nghiệm, rằng khoảng cách 2 mm giữa tiếp giáp men-xê măng và đỉnh xương ổ là đủ trong phần lớn các trường hợp. Hơn nữa, các tác giả khác ủng hộ việc loại bỏ thêm xương trong biotype dày để giảm sự mọc lại của mô mềm và để đảm bảo một kết quả ổn định lâu dài.
Các tác giả khác không chỉ ra bất kỳ giá trị cụ thể nào, đôi khi sử dụng các thuật ngữ như “giải phẫu đúng” hoặc “mài xương đủ”. Một số tác giả sử dụng rìa của vạt làm tham chiếu thay vì tiếp giáp men – xê măng và có thể tiến hành mài xương sao cho có ít nhất 3 mm giữa mào xương và viền nướu tự do mới được tạo ra (Bảng 1). Mặc dù có sự khác biệt về mức độ của việc mài xương, tất cả các tác giả đều khẳng định rằng mục đích của việc này là để tạo không gian phù hợp với khoảng sinh học. Chu & Karabin cho rằng viền xương trên chân răng dạng vỏ sò, dạng parabol của mào xương mô phỏng kiến trúc xương, tùy thuộc vào biotype nha chu hiện tại. Vì kiến trúc xương phải phản ánh kiến trúc mô mềm mong muốn, Cairo và cộng sự và Zucchelli đề nghị tạo hình mào xương song song với đường tiếp giáp men – xê măng (Hình 21 và 22).


Cắt xương có thể được thực hiện bằng dụng cụ cầm tay, chẳng hạn như đục Oschenbein hoặc Weidelstadt. Đa số các tác giả khuyên không nên cạo vôi hoặc xử lý mặt chân răng sau khi điều chỉnh xương. Khuyến cáo không làm tổn thương hoặc loại bỏ xê măng chân răng dựa trên thực tế là việc này có thể tạo ra bám dính không thể đoán trước và tiêu xương, làm ảnh hưởng đến kết quả thẩm mỹ cho bệnh nhân. Mặt khác, trong quy trình do Ribeiro và cộng sự cũng như Cairo và cộng sự, các bề mặt chân răng lộ ra được xử lý cẩn thận bằng cách sử dụng nạo.
Tương tự, không có sự thống nhất nào về việc định vị vạt ở cuối cuộc phẫu thuật, một số tác giả đề nghị khâu vạt ở chỗ nối men – xê măng và những người khác cho rằng vết khâu nên hơi ở phía thân răng so với đường nối men – xê măng. Zucchelli đề xuất khử biểu mô của gai nướu ở phần thấp nhất bằng kéo vi phẫu và đặt lại vị trí của vạt ở ngang, hoặc 1 mm về thân răng so với đường tiếp giáp men – xê măng (Hình 21 và 22) với mục đích cho bệnh nhân chiều dài răng cuối cùng ngay sau khi phẫu thuật mà không có thay đổi đáng kể nào sau phẫu thuật (Hình 22). Nếu làm dài thân răng trên lâm sàng được chỉ định ở mặt trong, thì lý tưởng là quy trình này nên được thực hiện vào một thời điểm khác, để giữ cho mô mặt ngoài và vùng giữa các răng không bị xáo trộn (Hình 23).

5.3. Quy trình điều chỉnh xương không lật vạt
Ribeiro và cộng sự đề xuất một thủ thuật làm dài thân răng thẩm mỹ không vạt xâm lấn tối thiểu để điều trị rối loạn mọc răng thụ động. Xương ổ răng được loại bỏ và phục hồi bằng cách sử dụng vi đục, thông qua đường rạch, mà không cần lật vạt. Trong thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, split-mouth này, làm dài thân răng thẩm mỹ, có hoặc không lật vạt, được phát hiện có kết quả lâm sàng tương tự và ổn định lên đến 12 tháng. Các tác giả đề xuất sử dụng thủ thuật không vạt vì nó dường như là một phương pháp khả thi, có thể dự đoán được và tiết kiệm thời gian (31 ± 12 phút so với 41 ± 14 phút) để điều trị nụ cười hở nướu do rối loạn mọc răng thụ động so với lật vạt. Tuy nhiên, kỹ thuật này không thể áp dụng trong trường hợp mọc răng thụ động kiểu 2B.
6. Thảo luận và kết luận
Mọc răng thụ động là một quá trình phức tạp kéo dài ít nhất 20 năm ở răng trước, phù hợp với những thay đổi liên quan đến sự phát triển các phần còn lại của cơ thể. Nhiều câu hỏi chưa được trả lời vẫn còn liên quan đến chẩn đoán, bệnh sinh, chỉ định điều trị và liệu pháp điều trị rối loạn mọc răng thụ động. Hầu hết các nghiên cứu điều tra các khía cạnh của rối loạn mọc răng thụ động là các nghiên cứu sơ bộ có kích thước mẫu nhỏ, và vì không có nghiên cứu nào đánh giá những thay đổi về chiều dài thân răng lâm sàng ở những đối tượng trên 20 tuổi, không có kết luận nào về chẩn đoán, bệnh sinh và điều trị phẫu thuật có thể thực hiện trên BN rối loạn mọc răng thụ động.
Chẩn đoán lâm sàng về rối loạn mọc răng thụ động cũng vẫn chưa chắc chắn vì khó phân biệt giữa tiếp giáp men – xê măng và đỉnh xương ổ trong quá trình thăm dò. X quang quanh chóp, ngay cả khi được cải thiện với các điểm tham chiếu cản quang, không phải lúc nào cũng cung cấp thông tin rõ ràng về vị trí của đường tiếp giáp men-xê măng và đỉnh xương ổ vì độ cản quang của chúng tương tự nhau. Thông thường, quan sát lâm sàng cho thấy xương dày ở những bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi quá trình rối loạn mọc răng thụ động. Điều này có thể giải thích cho việc không có hiện tượng co rút nướu, ít nhất là ở những bệnh nhân có mối quan hệ sinh lý bình thường giữa tiếp giáp men – xê măng và mào xương (phân nhóm A).
Không có dữ liệu nào trong các tài liệu báo cáo cách thực hiện điều trị không phẫu thuật và điều trị duy trì ở những bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi sự rối loạn mọc răng thụ động và các túi giả. Một hạn chế là do không thể thực hiện xử lý mặt chân răng trên men răng để giảm độ sâu của túi giả. Hạn chế thứ hai bắt nguồn từ nguy cơ gây co rút nướu do hậu quả của chấn thương thành mô mềm bên trong túi giả, có thể tạo ra sự sắp xếp không thẩm mỹ và không thể đoán trước của các viền mô mềm giữa các răng kế cận.
Những khó khăn trong việc lựa chọn một kỹ thuật phẫu thuật thích hợp để điều trị rối loạn mọc răng thụ động một phần bắt nguồn từ những khó khăn trong việc chẩn đoán. Đặc biệt, những khó khăn trong việc phân biệt giữa phân nhóm A hay phân nhóm B, cùng với thách thức về sự hiện diện của các phân nhóm khác nhau giữa các răng trong cùng một khu vực phẫu thuật, làm phức tạp thêm việc lập kế hoạch điều trị phẫu thuật. Nếu không cần thiết phải phẫu thuật tạo hình hoặc cắt bỏ xương, như trong trường hợp tổn thương nhỏ ở rìa mô mềm, thì phẫu thuật cắt nướu đơn giản là phương pháp điều trị được lựa chọn. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp rối loạn mọc răng thụ động đều cần phải phẫu thuật điều chỉnh xương do thể tích xương dư thừa, đòi hỏi phải có một vạt được định vị lại về phía chóp với sự tái tạo viền xương. Sự bất đồng chính giữa các tác giả liên quan đến khoảng cách chính xác giữa mào xương và tiếp giáp men – xê măng (từ 1 đến 3 mm) ở những bệnh nhân mọc răng thụ động nhóm B. Khoảng cách này rất quan trọng trong việc xác định lượng xương cần điều chỉnh.
Phẫu thuật điều trị rối loạn mọc răng thụ động dẫn đến thay đổi thẩm mỹ về ngoại hình và nụ cười của bệnh nhân, và mặc dù vậy, vẫn thiếu các nghiên cứu đánh giá tần suất bệnh nhân yêu cầu điều trị để tăng thẩm mỹ, cũng như thiếu các nghiên cứu đánh giá bệnh nhân ‘hài lòng với kết quả điều trị phẫu thuật’ hay không. Rõ ràng là không phải tất cả những ‘mối quan tâm’ của bác sĩ sẽ được người bệnh chú ý và do đó chúng không nhất thiết phải được điều trị.
Nguồn:
- Mele, M., Felice, P., Sharma, P., Mazzotti, C., Bellone, P., & Zucchelli, G. (2018). Esthetic treatment of altered passive eruption. Periodontology 2000, 77(1), 65–83. https://doi.org/10.1111/prd.12206
- Silberberg, N., Goldstein, M., & Smidt, A. (2009). Excessive gingival display – etiology, diagnosis, and treatment modalities. Quintessence international (Berlin, Germany : 1985), 40(10), 809–818.