1. Đường nối men ngà là một mẫu hình cho việc dán ngà
Bất cứ khi nào một vùng đáng kể ngà răng bị lộ trong quá trình sửa soạn răng cho các phục hình dán gián tiếp, thì nên sử dụng chất dán ngà răng (dentin bonding agent – DBA) tại chỗ để dán ngà tức thì. Các nguyên tắc dán ngà răng ngày nay đã được thiết lập tốt dựa trên công trình của Nakabayashi và các đồng nghiệp vào những năm 1980, nguyên tắc của nó là tạo ra một lớp interphase hoặc lớp interdiffusion, còn được gọi là lớp lai, bằng cách thâm nhập các monome vào mô cứng. Cách tiếp cận này mang tính bước ngoặt vì một khi nhựa thấm (infiltrated) được polyme hóa, nó có thể tạo ra một liên kết “cấu trúc” tương tự như liên kết xen kẽ được hình thành tại đường nối men – ngà răng (DEJ).
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng DEJ có thể được coi là một liên kết gia cố sợi hoàn hảo. Nó bao gồm một giao diện khoáng hóa vừa phải giữa hai mô khoáng hóa cao (men răng và ngà răng). Các bó collagen thô định hướng song song tạo thành các khối thống nhất lớn có thể chuyển hướng và làm tù đi các vết nứt men thông qua biến dạng dẻo đáng kể. Có những điểm tương đồng đáng kinh ngạc giữa DEJ và các nguyên tắc lai ngà-resin hiện tại. Cả hai đều có thể được coi là các interphase phức tạp (được gia cố bằng sợi fibril) và không phải là các giao diện đơn. Do đó, hiệu suất lâm sàng của DBA ngày nay đã được cải thiện đáng kể, cho phép phục hình dán có mức độ thành công lâm sàng cao. Mô phỏng DEJ bằng cách lai hóa ngà đã chứng minh là thiết lập một tham chiếu mới cho việc tối ưu hóa các quy trình dán ngà răng và mở ra nhiều cơ hội để phục hồi răng sinh học và bảo tồn bằng cách sử dụng sứ dán (bonded porcelain) làm chất thay thế men răng/DEJ.
2. Bằng chứng lâm sàng cho việc dùng DBA trong phục hình dán gián tiếp
Ý nghĩa lâm sàng của việc dán ngà răng đặc biệt cao trong trường hợp phục hình sứ dán gián tiếp (bonded porcelain restorations – BPR) như inlay, onlay và veneers vì độ bền cuối cùng của phục hình phụ thuộc nhiều vào quy trình dán. Các thử nghiệm lâm sàng dài hạn của Dumfahrt và Friedman cho thấy porcelain veneers dán bán phần vào ngà răng có nguy cơ hỏng cao hơn. Những tiến bộ gần đây trong kiến thức về DBA gợi ý rằng những lỗi này có thể được ngăn chặn bằng cách thay đổi quy trình dùng DBA. Trên thực tế, có những nguyên tắc cơ bản cần được tôn trọng trong quá trình lâm sàng của quá trình lai ghép ngà-resin, những nguyên tắc quan trọng nhất liên quan đến các vấn đề (1) nhiễm bẩn ngà răng và (2) tính nhạy cảm của lớp lai với sự sụp (collapse) cho đến khi nó được polyme hóa. Những yếu tố thiết yếu này khi được xem xét trong các phục hình dán gián tiếp, đặc biệt là BPR, dẫn đến kết luận rằng ngà răng có thể được dán ngay sau khi sửa soạn răng, được gọi là dán ngà răng tức thì (immediate dentin sealing – IDS), trước khi lấy dấu. Có ít nhất bốn động cơ hợp lý và một số lý do thực tế và kỹ thuật ủng hộ IDS.
1. Ngà răng mới lộ là chất nền lý tưởng cho dán ngà răng. Hầu hết các nghiên cứu về độ bền liên kết DBA đều sử dụng ngà răng mới được mài. Tuy nhiên, trong thực tế hàng ngày, răng phải được bảo vệ tạm thời cho nhu cầu chức năng và thẩm mỹ của bệnh nhân. Vào năm 1996 và 1997, Paul và các đồng nghiệp đã nêu lên mối lo ngại rằng nhiễm bẩn ngà răng do phục hình tạm có thể làm giảm khả năng liên kết ngà răng. Nghiên cứu của họ đã chứng minh rằng việc giảm đáng kể độ bền liên kết có thể xảy ra khi ngà răng bị nhiễm bằng các loại xi măng tạm khác nhau so với ngà răng mới cắt. Chúng không mô phỏng các nguồn ô nhiễm bổ sung như nước bọt và rò rỉ vi khuẩn, điều này sẽ được thảo luận sau. Trên thực tế, ngà răng mới cắt chỉ xuất hiện vào thời điểm sửa soạn răng (trước khi lấy dấu).
2. DBA tiền trùng hợp (precuring) dẫn đến độ bền liên kết được cải thiện. Trong hầu hết các nghiên cứu về độ bền liên kết DBA, lớp resin thấm (infiltrating) và lớp dán (adhesive layer) thường được polyme hóa (trùng hợp trước) trước khi đặt từng lớp composite, điều này dường như tạo ra độ bền liên kết được cải thiện khi so sánh với các trường hợp trong đó DBA và composite được trùng hợp cùng nhau. Những kết quả này gây ra bởi áp lực trong quá trình đặt composite hoặc đặt phục hình làm sụp đổ của lớp hỗn hợp ngà-resin chưa được trùng hợp. Lớp lai có thể bị suy yếu ở bề mặt do hàm lượng nhựa thấp trong các sợi collagen được nén chặt. Giả thuyết này được hỗ trợ bởi thực tế là các khiếm khuyết về cấu trúc và điểm yếu nội tại của lớp lai đã được chứng minh là có liên quan đến các điều kiện xử lý DBA. DBA tiền trùng hợp hoàn toàn tương thích với việc sử dụng trực tiếp phục hình composite; tuy nhiên, nó phát sinh một số vấn đề khi được áp dụng trong quá trình dán các phục hồi dán gián tiếp. Độ dày DBA đã được trùng hợp có thể thay đổi đáng kể tùy theo hình dạng bề mặt, trung bình là 60 đến 80 µm trên bề mặt lồi, nhẵn và lên đến 200 đến 300 µm trên các cấu trúc lõm như đường hoàn tất chamfer. Kết quả là, đặt và trùng hợp DBA ngay trước khi lắp phục hình composite gián tiếp hoặc sứ có thể ảnh hưởng đến việc đặt phục hình khít sát. Do đó, khuyến cáo rằng nhựa dán không được trùng hợp trước khi phục hồi được đặt xuống hoàn toàn. Điều này lại tạo ra ít nhất hai vấn đề quan trọng: (1) trong khi phục hồi đang được lắp vào, dòng dịch ngà hướng ra ngoài làm loãng chất dán và chặn các vi lỗ mà nhựa có thể xâm nhập vào; và (2) áp lực của hỗn hợp dán trong quá trình gắn veneer có thể tạo ra sự sụp đổ của ngà răng đã khử khoáng (sợi collagen) và sau đó ảnh hưởng đến sự gắn kết của giao diện dán. Người ta đã đề xuất rằng lớp dán nên được làm mỏng xuống dưới 40 µm để cho phép tiền trùng hợp (trước khi đặt phục hình); tuy nhiên, vì nhựa methacrylate thể hiện lớp ức chế lên đến 40 µm khi chúng được quang trùng hợp, nên việc làm mỏng quá mức có thể ngăn cản quang trùng hợp DBA. Tất cả các vấn đề đã nói ở trên có thể được giải quyết nếu các ngà răng lộ được dán tức thì, DBA được áp dụng và xử lý trực tiếp sau khi hoàn thành việc sửa soạn răng, trước khi lấy dấu sau cùng, điều này đã được xác nhận là tạo ra độ bền liên kết vượt trội và ít hình thành khoảng trống hơn. Interphase thu được có thể có khả năng chịu đựng tốt hơn khi tiếp xúc lâu dài với nhiệt và lực chức năng so với chất dán tương tự được sử dụng và trùng hợp cùng với phục hình.
3. Dán ngà tức thì cho phép phát triển liên kết ngà răng mà không gây áp lực. Độ bền liên kết của ngà răng phát triển dần dần theo thời gian, có thể là do quá trình đồng trùng hợp liên quan đến các monome khác nhau đã hoàn thành. Reis và các đồng nghiệp đã cho thấy sự gia tăng đáng kể về độ bền dán trong khoảng thời gian 1 tuần. Trong các phục hồi dán trực tiếp, liên kết ngà sớm yếu hơn thì ngay lập tức bị thách thức bởi sự co rút của composite phủ bên trên và lực nhai sau đó. Mặt khác, khi sử dụng IDS và các phục hồi dán gián tiếp, do việc đặt phục hồi bị trì hoãn (intrinsic to indirect techniques) và lực nhai bị trì hoãn, liên kết ngà răng có thể phát triển mà không bị stress, dẫn đến sự thích ứng của phục hồi được cải thiện đáng kể.
4. Dán ngà tức thì bảo vệ ngà răng chống rò rỉ vi khuẩn và nhạy cảm trong quá trình phục hình tạm. Dựa trên thực tế là các phục hồi tạm thời có thể cho phép vi khuẩn rò rỉ và sau đó là sự nhạy cảm của ngà răng, vào năm 1992, Pashley và các đồng nghiệp đã đề xuất dán kín ngà răng trong quá trình sửa soạn mão răng. Ý tưởng này thậm chí còn hữu ích hơn khi sử dụng phục hình sứ dán (ví dụ: veneer). Một nghiên cứu in vivo đã xác nhận khả năng của các loại primer khác nhau trong việc ngăn chặn sự nhạy cảm và sự xâm nhập của vi khuẩn khi sửa soạn cho mặt dán sứ.
3. Các yếu tố ủng hộ dán ngà tức thì
Các tình huống thực tế và lâm sàng sau đây giải thích cho việc sử dụng dán ngà tức thì IDS:
• Bệnh nhân thoải mái. Bệnh nhân trải nghiệm sự thoải mái trong quá trình PH tạm, hạn chế nhu cầu gây tê trong quá trình đặt phục hình và giảm nhạy cảm sau quy trình.
• Bảo tồn cấu trúc răng tối đa. Khi được sử dụng trên các sửa soạn che phủ toàn thân răng và kết hợp với xi măng ionomer thủy tinh hoặc modified-resin, dán ngà tức thì có thể giúp tăng khả năng lưu giữ đáng kể, vượt quá độ bền cohesive của răng. Do đó, IDS có thể tạo thành một công cụ hữu ích để cải thiện khả năng lưu giữ khi xử lý các thân răng lâm sàng ngắn và các cùi răng được làm thuôn quá mức. Với điều kiện đạt được độ bám dính tối ưu ở mặt trong phục hình (ví dụ: xoi mòn và silan hóa sứ, như trong trường hợp inlay, onlay và veneers), các nguyên tắc sửa soạn răng truyền thống có thể được bỏ qua và cho phép loại bảo tồn cấu trúc răng hơn đáng kể (Hình 1).

• Sử dụng có hệ thống DBA quang trùng hợp. Khi áp dụng IDS, do chế độ trùng hợp trực tiếp và tức thì, có thể sử dụng DBA quang trùng hợp. Nếu không có IDS, việc sử dụng DBA trùng hợp kép để đảm bảo trùng hợp hoàn toàn xuyên qua phục hình có thể được yêu cầu. Cơ sở dữ liệu kiến thức về nhựa trùng hợp kép còn hạn chế, và do đó, chúng không phải là lựa chọn đầu tiên làm vật liệu dán. Công thức của vật liệu trùng hợp kép được biết là thể hiện sự cân bằng giữa mức độ trùng hợp cao trong tất cả các mặt của phục hình và sự không ổn định về màu sắc do sự phân hủy amin. Do đó, các đặc tính cơ học hoặc tính chất thẩm mỹ có thể bị ảnh hưởng.
• Conditioning men răng và ngà răng riêng biệt. Vì IDS được thực hiện chủ yếu trên các bề mặt ngà răng lộ, bác sĩ có thể chỉ tập trung vào “liên kết ướt” với ngà răng (trong trường hợp xoi mòn toàn bộ), trong khi conditioning men răng có thể được thực hiện riêng ở giai đoạn đặt phục hình sau cùng.
4. Các lưu ý trong thực hiện dán ngà tức thì
Xác định ngà
Bước kỹ thuật đầu tiên để áp dụng IDS là xác định các bề mặt ngà răng bị lộ. Một phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả là tiến hành xoi mòn ngắn (2–3 giây) và làm khô hoàn toàn các bề mặt. Có thể dễ dàng nhận ra ngà răng vì bề mặt bóng của nó, trong khi men răng thì mờ. Sau lần xoi mòn ban đầu này, bề mặt ngà răng phải được sửa soạn lại (ví dụ, làm nhám nhẹ bằng mũi khoan kim cương) để lộ ra một lớp ngà mới và được xoi mòn lại trước khi áp dụng DBA.
Độ sâu sửa soạn
Như đã đề cập trước đó, độ dày của DBA có thể đạt tới vài trăm micromet khi đặt vào các vùng lõm. Khi sử dụng IDS, lớp dán bổ sung đôi khi có thể ảnh hưởng tiêu cực đến độ dày của phục hình trong tương lai. Điều này đặc biệt rõ ràng trong trường hợp veneer và khi có ĐHT phía nướu nằm trong ngà răng (Hình 2). Khi ĐHT ở ngà răng, nên sử dụng một bờ cong rõ (0,7–0,8 mm) để xác định ĐHT đầy đủ và đủ không gian cho chất dán và phục hình (xem Hình 2A–C). Một bờ cong nông sẽ làm cho chất dán tràn ra khỏi ĐHT và ảnh hưởng đến cả độ rõ của ĐHT và độ dày của sứ. Ở các vị trí dọc theo trục răng khác, việc lộ ngà răng ít ở bề mặt chỉ tạo ra một không gian hạn chế cho các vật liệu phục hồi, bao gồm cả chất dán. Việc đặt và trùng hợp DBA sẽ làm giảm đáng kể không gian còn lại cho sứ buildup. Xem xét rằng tỷ lệ thấp của sứ so với độ dày của chất dán có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phân bố ứng suất bên trong sứ, IDS không được chỉ định cho các trường hợp lộ ngà răng bề mặt. Mặt khác, các bề mặt sửa soạn sâu hơn (nghĩa là khi có khiếm khuyết Loại IV hoặc V hoặc trong trường hợp sửa soạn inlay/onlay/overlay) có thể được xử lý dễ dàng bằng IDS trước khi lấy dấu vì có đủ khoảng trống cho vật liệu phục hồi để duy trì một tỷ lệ hợp lý về độ dày giữa sứ và chất dán.


Kỹ thuật dán
Kỹ thuật được mô tả dưới đây sẽ tập trung vào việc sử dụng kỹ thuật xoi mòn toàn bộ – total-etch (còn gọi là “etch and rinse”), có thể bao gồm chất dán ngà răng ba bước (primer và chất dán riêng biệt) hoặc hai bước (self-priming resin). Mặc dù có xu hướng đơn giản hóa các quy trình liên kết, dữ liệu gần đây xác nhận rằng chất dán xoi mòn toàn bộ 3 bước thông thường vẫn hoạt động thuận lợi nhất và đáng tin cậy nhất trong thời gian dài.
Quá trình xoi mòn ngà răng mới cắt (với H3PO4 trong 5–15 giây) phải ngay sau khi sửa soạn răng (xem Hình 2D và E) để tránh nhiễm bẩn nước bọt. Sau khi rửa, nước dư thừa phải được loại bỏ. Người ta nên thận trọng vì cả việc làm khô quá mức và làm ướt quá mức đều có thể gây ra liên kết kém hơn do sự phân hủy collagen bị khử khoáng và sự rò rỉ nano/nước tương ứng. Theo đó, nên tránh làm khô bằng thổi khí. Có thể loại bỏ độ ẩm dư thừa bằng cách sử dụng hút khô (negative air pressure) (xem Hình 2F và G) mà không tác dụng áp suất dương lên ngà răng đã khử khoáng.
Các bước tiếp theo có thể bao gồm việc sử dụng primer (hệ thống ba bước) hoặc selfpriming resin (hệ thống hai bước). Trên thực tế, primer riêng biệt nên được ưu tiên (xem Hình 2H–J), không chỉ vì tốt hơn cho chất dán sau đó mà còn vì nó cho phép định vị chất dán chính xác hơn. Trên thực tế, việc sử dụng primer hoặc selfpriming resin thường yêu cầu chải nhẹ, điều này giúp làm trải rộng nhựa trên các giới hạn ngà răng bị lộ. Không có hậu quả nào khi sử dụng lớp primer riêng vì nó không tạo ra bất kỳ độ dày hoặc lớp nào có thể phát hiện được. Sau khi hút dung môi dư thừa (xem Hình 2J), chất dán có thể được đặt chính xác (ví dụ: với cây đo túi, như trong trường hợp ĐHT sửa soạn veneer; xem Hình 2K–N). Mặt khác, việc sử dụng nhựa selfpriming tạo ra phần thừa và có thể kéo ra ngoài ĐHT (vào rãnh nướu), cần phải điều chỉnh thêm bằng mũi khoan, một lần nữa làm lộ ngà ở ĐHT.
Sau lần trùng hợp đầu tiên (chế độ thông thường 20 giây; xem Hình 2O và P), một lớp glycerin (chặn khí) được phủ lên chất dán và hơi vượt ra ngoài. Nên trùng hợp bổ sung (chế độ thông thường 10 giây) DBA xuyên qua một lớp glycerin (xem Hình 2Q) để polyme hóa lớp ức chế oxy và ngăn chặn sự tương tác của chất dán ngà răng với vật liệu lấy dấu (đặc biệt là polyethers). Vị trí chính xác của nhựa dán thường được xác nhận bằng cách tháo chỉ co nướu vì dây không được dính vào ĐHT (xem Hình 2R và S).
Lưu ý với phục hình tạm
Các bề mặt ngà răng được dán kín có khả năng kết dính với các vật liệu và xi măng tạm thời gốc nhựa. Do đó, việc tháo và loại bỏ các phục hình tạm có thể cực kỳ khó khăn. Việc sửa soạn răng phải được cách ly nghiêm ngặt bằng một phương tiện tách biệt (ví dụ: một lớp dầu bôi trơn dày) trong quá trình chế tác phục hình tạm. Chúng tôi đặc biệt khuyên nên tránh xi măng tạm nền nhựa mà thay vào đó cung cấp khả năng lưu giữ và ổn định cơ học (ví dụ: khóa phục hồi thông qua việc bổ sung nhựa lỏng ở đường vòng lớn nhất ở mặt trong; nẹp nhiều phục hình tạm cũng có thể tăng cường đáng kể độ ổn định ban đầu của phục hình tạm). Do khả năng tiếp xúc của chất dán đã trùng hợp với dịch miệng cũng như cơ chế hấp thụ nước, nên giảm thời gian PH tạm xuống tối đa là 2 tuần.
Resin dán: đặt PH sau cùng
Trong số các hệ thống đương đại (năm 2005) đáng tin cậy nhất, OptiBond FL (Kerr, Orange, CA, USA) được đặc biệt chỉ định cho ứng dụng IDS vì khả năng tạo thành một lớp nhất quán và đồng nhất (khoảng 80 µm khi đặt trên bề mặt ngà hơi lồi) và sự gắn kết của nó với composite dán sau cùng. Đặc biệt là trong trường hợp phục hồi dán răng sau, OptiBond FL cho phép lai ngà răng và hình thành lớp lót có mô đun đàn hồi thấp (hấp thụ ứng suất) với khả năng thích ứng với ngà răng được cải thiện đáng kể. Ngay trước khi thực hiện quy trình dán (khi đặt phục hình sau cùng), nên làm nhám nhựa dán hiện có bằng cách sử dụng mũi khoan kim cương thô ở tốc độ thấp hoặc bằng cách phun cát siêu nhỏ. Sau đó, toàn bộ bề mặt răng có thể được xử lý như cách nó sẽ được thực hiện trong trường hợp không lộ ngà răng: H3PO4 etch (30 giây), rửa sạch, làm khô và phủ một lớp nhựa dán. Lần này, không chỉ định keo dán tiền trùng hợp vì nó sẽ cản trở việc khít sát hoàn toàn phục hồi. DBA không chất độn cũng có thể được sử dụng để dán kín ngà răng; tuy nhiên, người ta phải nhớ rằng các quy trình làm sạch và làm nhám có thể dễ dàng phá hủy lớp lai và làm lộ ngà răng trở lại do độ dày và độ cứng của chất dán giảm (liên quan đến việc không có chất độn). Do đó, các bề mặt được dán bằng DBA không chất độn chỉ nên được làm sạch nhẹ nhàng bằng bàn chải mềm và pumice.
Khi sửa soạn sâu hơn (ví dụ, ở răng sau), DBA không chất độn được bao phủ bởi một lớp composite mỏng có thể chảy được cũng có thể được sử dụng để đạt được IDS. Resin lỏng không nên thay thế việc sử dụng resin không chất độn vì resin lỏng không đủ thẩm thấu ở trên cùng của lớp lai cũng như nhiều ống ngà bị tắc nghẽn bởi các hạt chất độn.
Cách tiếp cận chung
Kỹ thuật được mô tả ở trên có thể áp dụng cho cả phục hồi dán ở răng trước và sau. Một tình huống điển hình của việc sửa soạn onlay dán răng sau, sau khi loại bỏ amalgam được mô tả trong Hình 3, theo cùng một quy trình. Giống như ở các răng phía trước, xoi mòn luôn phải mở rộng một chút trên men răng để đảm bảo sự ổn định của toàn bộ bề mặt ngà răng (xem Hình 3C). Ở các răng sau, với kích thước, độ sâu trung bình lớn hơn và cấu hình thuận lợi hơn của hầu hết các sửa soạn, việc sử dụng DBA hai bước hoặc ba bước đều có thể thực hiện được (xem Hình 3D–F). Tuy nhiên, bác sĩ lâm sàng nên nhớ rằng việc sử dụng nhựa selfpriming sẽ tạo ra nhiều nhựa thừa hơn (do chuyển động chải), có thể kéo qua ĐHT và yêu cầu chỉnh sửa thêm bằng mũi khoan.


Điều này có vẻ quan trọng hơn trong trường hợp có ĐHT trên ngà ở vùng kẽ vì nhựa thừa đi vào rãnh nướu có thể cần sửa soạn lại, tái lộ ngà ở ĐHT và việc sử dụng DBA sau đó trong quá trình gắn phục hình. IDS có thể được thực hiện ngay sau khi đặt một lớp composite (xem Hình 3G và H) để xóa các vết undercut và/hoặc buildup các lỗ sâu quá mức để duy trì độ dày phục hình hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng composite quang trùng hợp sau này. Sau quá trình trùng hợp sau cùng của lớp ức chế (xem Hình 3I), các ĐHT trên men răng thường được chuẩn bị lại ngay trước khi lấy dấu sau cùng để loại bỏ nhựa dán dư thừa và tạo độ thuôn lý tưởng (xem Hình 3J và K).
5. Kết luận
Bằng chứng quan trọng từ tài liệu cũng như kinh nghiệm lâm sàng cho thấy sự cần thiết phải có một quy trình sửa đổi để dán ngà răng khi đặt các phục hình dán gián tiếp như inlay composite/sứ, onlay và mặt dán sứ. Nên áp dụng dán ngà tức thì và trùng hợp DBA lên ngà răng mới cắt, trước khi lấy dấu. IDS dường như đạt được độ bền liên kết cải thiện, ít hình thành khe hở hơn, giảm rò rỉ vi khuẩn và giảm độ nhạy cảm của ngà răng. Việc sử dụng DBA không chất độn hoặc sử dụng kết hợp DBA không chất độn và composite liner có thể chảy tạo điều kiện thuận lợi cho các khía cạnh lâm sàng và kỹ thuật của IDS. Khái niệm này sẽ kích thích cả các nhà nghiên cứu và bác sĩ lâm sàng trong việc nghiên cứu và phát triển các giao thức mới để hợp lý hóa các kỹ thuật và vật liệu kết dính dẫn đến bảo tồn cấu trúc răng tối đa, cải thiện sự thoải mái của bệnh nhân và sự tồn tại lâu dài của các phục hồi dán gián tiếp.
Tóm tắt
Các bước dán ngà tức thì bằng cách sử dụng hệ thống total-etch (etch and rinse):
- Etch trong 2-3 giây để xác định ngà răng (vùng bóng)
- Bộc lộ một lớp ngà mới bằng mũi khoan kim cương
- Ngay lập tức xoi mòn lại ngà răng mới lộ bằng axit photphoric trong 5-15 giây
- Rửa và loại bỏ nước thừa bằng phương pháp hút (áp suất âm)
- Bôi primer
- Làm mỏng bằng cách thổi nhẹ để loại bỏ dung môi
- Bôi chất dán resin
- Quang trùng hợp với chế độ thông thường trong 20 giây
- Bôi một lớp air blocking material (glycerin gel) bên trên chất dán
- Quang trùng hợp với chế độ thông thường trong 10 giây
- Có thể thực hiện tối ưu hóa cùi răng và nhẹ nhàng làm sạch bề mặt để loại bỏ vật lý lớp oxygen inhibited (air abrasion\pumice)
- Lấy dấu
Gắn phục hình / gắn xi măng phục hồi gián tiếp
- Làm nhám bằng mũi khoan ở tốc độ chậm hoặc phun cát (air abrasion) phần chất dán
- Xoi mòn toàn bộ cùi răng (vì không có lộ ngà răng): Xoi mòn axit photphoric trong 30 giây.
- Rửa sạch, lau khô và phủ một lớp chất dán (không trùng hợp, nó sẽ ảnh hưởng đến khoảng không gian của phục hồi cuối cùng)
- Gắn xi măng của phục hồi sau cùng như bình thường
Chú ý
- Làm khô quá mức hoặc làm ướt quá mức ngà răng sẽ gây ra hiện tượng sụp ngà răng và rò rỉ nano trong liên kết dẫn đến liên kết yếu đi.
- Thận trọng với việc thổi khô bằng không khí
- Làm việc với hệ thống 3 bước total-etch được ưu tiên hơn
- Bạn có thể bôi chất dán lên các đường hoàn tất bằng cách sử dụng cây đo túi để cho độ chính xác cao hơn
Ý nghĩa của các bước thực hiện
- Bộc lộ ngà răng mới bằng mũi khoan kim cương (nếu áp dụng kỹ thuật etch-and-rinse); mũi khoan tungsten carbide (trường hợp áp dụng kỹ thuật self-etch) => Để loại bỏ mùn ngà trên bề mặt cùi răng.
- Thực hiện bôi keo dán ngà theo hướng dẫn của nhà sản xuất (3 bước etch-and-rinse hoặc 2 bước self-etch). Bôi một lớp keo dán resin dày (loại keo dán có hạt độn) rồi chiếu đèn trùng hợp. Nếu sử dụng keo dán không hạt độn, nên bôi thêm lớp resin composite lỏng và chiếu đèn. => Để che kín bề mặt ngà răng bị lộ bằng lớp vật liệu resin.
- Tùy chọn: sử dụng resin composite lên răng để điều chỉnh hình thái học của cùi răng, nâng đường hoàn tất hoặc đắp lẹm cho cùi răng. => Để tăng cường khả năng chịu lực cho các múi răng và hình thái học lý tưởng của cùi răng.
- Che phủ bề mặt cùi răng bằng glycerin và chiếu đèn trùng hợp trong 10 giây, sau đó rửa sạch lớp glycerin. => Để giảm độ dày của lớp ức chế oxygen.
- Mài điều chỉnh lại phần men răng bằng mũi khoan kim cương. => Để loại bỏ phần keo dán thừa đã lan ra bề mặt men răng.
- Trước khi lấy dấu bằng vật liệu đàn hồi (cao su lấy dấu), đánh bóng nhẹ nhàng cùi răng bằng đài cao su đánh bóng mềm với bột pumice. => Để loại bỏ mùn bẩn và lớp ức chế trùng hợp oxygen còn lại.
- Tiến hành lấy dấu (lấy dấu kỹ thuật số hoặc cao su lấy dấu) => Để thực hiện phục hồi gián tiếp như inlay, onlay, veneer, hoặc mão.
- Cách ly cùi răng bằng vật liệu cách ly (vaselin) trước khi làm phục hình tạm. => Để ngăn phục hình tạm không kết dính với lớp IDS đã thực hiện.
- Khi gắn phục hình: 1) thổi hơi nhẹ nhàng và xoi mòn men răng với H3PO4 và 2) sử dụng xi măng dán resin (và keo dán resin nếu cần thiết làm ướt cùi răng) => 1) Để làm sạch cùi răng trước khi dán và 2) dán phục hình.
Nguồn:
MAGNE, P. (2006). Immediate dentin sealing: A fundamental procedure for indirect bonded restorations. Journal of Esthetic and Restorative Dentistry, 17(3), 144-154. doi:10.1111/j.1708-8240.2005.tb00103.x
Magne P. (2014). IDS: Immediate Dentin Sealing (IDS) for tooth preparations. The journal of adhesive dentistry, 16(6), 594. https://doi.org/10.3290/j.jad.a33324
- Immediate dentin sealing protocols, benefits, and applications. Immediate Dentin Sealing Protocols, Benefits, and Applications. (n.d.). Retrieved December 28, 2022, from https://www.biomimeticstudyclub.com/blog/Immediate%20Dentin%20Sealing%20Protocols,%20Benefits,%20and%20Applications
Bài viết hay và rất bổ ích! Cảm ơn admin nhé 🥰
Cảm ơn bạn đã ủng hộ ^^
woa bài viết quá hay, quá bổ ích, ad tâm huyết quá. Em xin chân thành cảm ơn ạ