1. Tổng quan
Mất xương và mô mềm thường không thể tránh khỏi, ngay cả sau khi nhổ răng không sang chấn. Một số bước phẫu thuật sau đó phải được thực hiện để ngăn ngừa mất mô, ví dụ như bảo tồn gờ xương.
Thời điểm đặt implant và ghép xương sau khi nhổ răng đã được thảo luận rộng rãi trong y văn. Theo Chen và Buser, sự tụt xuống của niêm mạc là một rủi ro khi đặt implant tức thì (loại 1) vào vùng thẩm mỹ, dẫn đến kết quả không được tối ưu. Trong systematic của họ, việc đặt implant tức thì đã được chứng minh là có thay đổi nhiều về kết quả và có tần suất tụt nướu nhiều hơn 1mm (tám nghiên cứu; phạm vi 9–41% và trung bình 26% các vị trí, 1 –3 năm sau khi đặt) so với đặt implant sớm (loại 2 và loại 3) (2 nghiên cứu; không có vị trí nào bị tụt >1 mm). Trong hai nghiên cứu hồi cứu về đặt implant tức thì bằng ghép xương, thành xương mặt ngoài không thể phát hiện được trên chụp CBCT ở 36% và 57% vị trí. Những vị trí này bị tụt hơn so với những vị trí có xương mặt ngoài.
Đặt implant tức thì cũng yêu cầu ghép vào khoảng trống giữa implant và thành ngoài, bằng xương tự thân, xương thay thế và/hoặc mô mềm để đạt được kết quả tốt hơn. Phục hình tạm tức thì, với đường viền phù hợp, cũng là một yếu tố quan trọng, cũng như vị trí ba chiều hoàn hảo của implant, được thực hiện lý tưởng theo phương pháp không lật vạt. Sự hiện diện của tình trạng tụt mô mềm, nhiễm trùng hoặc thiếu xương sẵn có để cố định implant ở vị trí phục hồi lý tưởng cũng là những yếu tố cần được phân tích trước khi nhổ để xem xét việc đặt tức thì. Tuy nhiên, trong tay của các bác sĩ lâm sàng có kinh nghiệm và khi mọi điều kiện đều thuận lợi, việc đặt implant tức thì được coi là phương pháp được ưu tiên.
Buser và cộng sự đã đề xuất một phương pháp tiếp cận sớm, đặt implant 6–8 tuần sau khi nhổ răng. Thời gian này cho phép mô mềm lành hoàn toàn sau khi nhổ răng, làm tăng độ dày của mô mềm, nhưng kèm theo đó là làm phẳng xương ổ răng ở phần cao nhất của ổ răng. Sau đó, với quy trình tạo vạt mở, có thể đạt được vị trí implant ba chiều hoàn hảo và đồng thời tái tạo thể tích ổ răng, bằng cách tạo đường viền bằng cách sử dụng quy trình tái tạo xương có hướng dẫn (GBR) với các mảnh xương tự thân kết hợp với xương thay thế ít chất độn và một màng collagen tiêu. Các quy trình này là cần thiết trong hầu hết các trường hợp, đặc biệt là để cải thiện kích thước chiều ngang, vì các kiểu hình thành xương mặt ngoài mỏng đã cho thấy sự mất xương theo chiều dọc tiến triển 7,5 mm ở mặt ngoài sau 8 tuần. Mặc dù quy trình này đã được chứng minh là có kết quả tuyệt vời và ổn định theo thời gian, nhưng nó có ba yếu tố quan trọng: cần hai quy trình riêng biệt, cần mở vạt và cần tái tạo GBR. Đây là những quy trình đòi hỏi nhiều thời gian cho đến khi quá trình phục hình cuối cùng được thực hiện. Ngoài ra, chúng xâm lấn hơn và yêu cầu bác sĩ lâm sàng có trình độ chuyên môn có thể điều trị các tình huống từ nâng cao đến phức tạp. Trong trường hợp mô mềm bị tụt và nhiễm trùng, nhưng vẫn còn đủ xương để ổn định implant, phương pháp tiếp cận sớm cho phép đặt và tái tạo implant an toàn và lý tưởng.
Cả việc đặt implant tức thì và sớm đều yêu cầu một điều kiện: đủ xương ổ răng còn lại để đảm bảo implant có độ ổn định ban đầu tốt và phải được đặt ở vị trí định hướng phục hình. Cả hai kỹ thuật đều yêu cầu ghép xương (hoặc chất độn) để bù đắp cho việc tái tạo xương ổ răng xảy ra sau khi nhổ răng và tăng thể tích nâng đỡ các mô mềm xung quanh.
Bốn mặt quan trọng phân biệt sự khác biệt đối với các tình huống mất răng đơn lẻ và mất răng bán phần: vị trí implant, vị trí mảnh ghép, quản lý mô mềm và tải lực implant. Đặt implant với một vạt mở cho phép bác sĩ lâm sàng nhìn được implant sẽ đi đến đâu, trong khi với cách tiếp cận không lật vạt, có thể khó đạt được vị trí lý tưởng và thấy được implant đang được cố định ở đâu. Phẫu thuật có hướng dẫn và kinh nghiệm có thể cải thiện kết quả. Với một vạt mở, bác sĩ có thể hình dung chính xác vị trí mảnh ghép cần được đặt, sử dụng một lượng lớn vật liệu ghép, quan sát và cố định một lớp màng, nếu cần. Trong phương pháp tiếp cận đặt implant tức thì và không vạt, việc đặt mảnh ghép (hoặc lấp đầy khoảng trống) và sử dụng màng sẽ khó khăn hơn. Một mảnh ghép lớn hơn có thể được sử dụng trong phương pháp tiếp cận sớm và việc đóng kín hoàn toàn sẽ ít khó khăn hơn.
Trong phương pháp tiếp cận sớm, nhiều mô mềm hơn được hình thành, do đó kỹ thuật này được ưa chuộng hơn trong các tình huống tụt mô mềm. Độ dày của mô mềm có thể tăng lên bằng cách rạch trong khẩu cái hơn và đưa mô liên kết ra vùng mặt ngoài. Các chất thay thế mô mềm có thể được đặt và ổn định dễ dàng hơn. Ở đặt implant tức thì với phương pháp không lật vạt, việc tăng độ dày mô mềm nếu cần có thể là một thách thức về mặt kỹ thuật và khó dự đoán hơn. Việc đặt implant tức thì có thể được thực hiện với phương pháp vạt mở. Tuy nhiên, trong trường hợp cần đóng hoàn toàn (nguyên phát), phải có sự di động của vạt và điều này có thể dẫn đến profile mô mềm không thẩm mỹ do mô mềm phía ngoài được đưa về phía thân răng. Điều này có thể ảnh hưởng đến lớp nướu dính và độ sâu của ngách hành lang, và có thể yêu cầu một quy trình bổ sung và riêng biệt để khắc phục sự thiếu hụt mô mềm sau này.
Trong đặt implant tức thì với phương pháp không vạt, sẽ có lợi nếu sử dụng một healing tùy chỉnh hoặc phục hình tạm tức thì, để bảo tồn đường viền mô mềm ban đầu trước khi nhổ răng. Nếu một phương pháp tiếp cận sớm được sử dụng, một quy trình phục hình tạm tức thì không phải là không thể, nhưng nó không được ghi chép đầy đủ trong y văn như phương pháp đặt implant tức thì. Điều kiện chịu tải chủ yếu liên quan đến độ ổn định ban đầu của implant, có thể đạt được trong cả hai phương pháp, nhưng cũng có thể nhờ mô mềm, do phục hình tạm tăng thể tích đỡ các mô mềm và bịt kín ổ răng, bảo vệ mảnh ghép được đặt.
Tuy nhiên, khi không có đủ xương để ổn định implant (xương có sẵn ở chóp <5 mm) và/hoặc bác sĩ lâm sàng không muốn mạo hiểm với việc đặt implant tức thì, hãy ghép xương vào ổ răng sau khi nhổ răng để giảm sự tái cấu trúc và tăng thể tích nâng đỡ xương ổ răng, mô mềm có thể là phương pháp lý tưởng. Cardaropoli và cộng sự, trong một phân loại gần đây, gọi tình huống này là vùng sau nhổ răng loại II (nhổ không sang chấn với điều kiện giải phẫu thuận lợi một phần).
Bảo tồn gờ xương ổ răng là một kỹ thuật nhằm giảm thiểu sự tái cấu trúc theo chiều ngang và chiều dọc sau khi nhổ răng. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng với các quy trình bảo tồn gờ xương ổ răng, sự tiêu xương theo chiều ngang chỉ hơn 1 mm sẽ vẫn xảy ra, với sự bảo tồn gờ xương tương đối theo chiều dọc, trong khi việc thiếu bảo tồn gờ xương ổ răng sẽ dẫn đến mất hơn 3 mm theo chiều ngang và ít nhất 1mm theo chiều dọc trở lên. Thông thường, phẫu thuật implant có thể được thực hiện sau 4–6 tháng, với kết quả đạt được như khi đặt implant vào xương tự nhiên.
So với các kỹ thuật cấy tức thì và sớm, bảo tồn gờ xương là một quy trình dễ dàng hơn có thể được thực hiện theo cách tiếp cận không lật vạt một cách nhất quán, ngay cả với các bác sĩ lâm sàng ít kinh nghiệm hơn. Nó giúp cải thiện mô mềm, một khi nó được khâu đóng nguyên phát, nhưng cũng cho phép sử dụng seal mô mềm cho vật liệu ghép tự thân hoặc dị loại. Nhược điểm là nó đòi hỏi hai quy trình riêng biệt (một để nhổ răng và ghép, và một để đặt implant) và mất nhiều thời gian hơn để lành thương (thường là 4–6 tháng, tùy thuộc vào vật liệu được sử dụng và quá trình lành thương diễn ra như thế nào). Nhưng trong hầu hết các trường hợp, vị trí cắm implant sau khi lành có thể được coi như một gờ xương đã lành thương. Có thể sử dụng phương pháp vạt hoặc không vạt, ghép mô mềm bổ sung nếu được chỉ định và implant có thể được chịu tải tức thì. Phân loại SAC trong Nha khoa implant nêu bật các yếu tố giải phẫu và lâm sàng phải được quan sát để xác định kỹ thuật tốt nhất cho một tình huống cụ thể và đóng vai trò như một checklist để hỗ trợ bác sĩ lâm sàng.
2. Kỹ thuật bảo tồn gờ xương
Lập kế hoạch về thời điểm đặt implant và nhu cầu ghép, bao gồm chỉ định bảo tồn gờ xương ổ răng, được bắt đầu khi quyết định nhổ răng được lên kế hoạch. Nên chụp CBCT trước khi nhổ răng để đánh giá xương ổ răng và khoảng trống mà răng chiếm giữ. Hình dung đầy đủ về vị trí implant trong tương lai và bác sĩ phẫu thuật cần đánh giá xem liệu implant có thể được cố định ở vị trí định hướng phục hồi lý tưởng trong xương ổ răng còn lại hay không. Sử dụng các công cụ phân đoạn trong phần mềm lập kế hoạch kỹ thuật số, có thể thực hiện thao tác trích xuất ảo và có thể xem xương có sẵn và định vị ảo của implant. Một wax-up ảo cũng có thể được sử dụng để đánh giá vị trí implant lý tưởng.
Nếu có rất ít hoặc không có xương ở phía chóp và khẩu cái để neo giữ implant (<5 mm), quy trình bảo tồn xương ổ được chỉ định. Về mặt lâm sàng, các mô mềm cần được đánh giá từ mặt ngoài và mặt nhai. Nếu có hiện tượng tụt nướu, thì cũng phải đưa ra quyết định xem có cần ghép mô mềm hay không, với phương pháp socket sealing. Nếu có nhiễm trùng cấp tính, nên kê đơn kháng sinh bắt đầu từ 3–4 ngày trước khi tiến hành phẫu thuật, trong tổng thời gian 7–10 ngày. Amoxicillin là chỉ định ưu tiên cho bệnh nhân không dị ứng. Kiểm soát cơn đau thường đạt được bằng thuốc kháng viêm không steroid và/hoặc acetaminophen 500 mg.
Quy trình có thể được thực hiện dưới gây tê tại chỗ. Chúng tôi khuyên bạn nên lau sạch vùng nướu và răng bằng gạc được làm ẩm bằng chlorhexidine gluconate 0,12%, ngay trước khi nhổ răng. Kiểm soát mảng bám nên được thực hiện trước khi nhổ và ghép xương, để giảm nguy cơ nhiễm trùng và mất mảnh ghép. Bước phẫu thuật đầu tiên liên quan đến việc nhổ răng không sang chấn, sử dụng phương pháp không vạt. Không cần lật mô mềm. Một periotome (nạy rất mỏng) có thể được sử dụng để cắt dây chằng nha chu. Các dụng cụ mỏng như dụng cụ periotome hoặc SDI Luxator® #1 hoặc #3 (Directa, Upplands Väsby, Thụy Điển) được sử dụng để làm lung lay răng, nhằm tránh xoay và vỡ bản xương mặt ngoài và các mô mềm lân cận.
Các dụng cụ nhổ theo chiều dọc như Benex® (Benex-Dent, Lucerne, Thụy Sĩ) cũng có thể được sử dụng cho răng một chân nếu không có vết nứt dọc. Thường cần phải cắt răng để việc nhổ dễ dàng và ít sang chấn hơn, theo cách không lật vạt, đặc biệt là ở những răng có nhiều chân. Tay khoan phẫu thuật ưa thích có thể được sử dụng. Tác giả thích một tay NSK contra-angled có mô-men xoắn cao (Nakanishi Inc., Tochigi, Nhật Bản), với mũi khoan 702 L. Kềm nhỏ, chẳng hạn như kềm chóp chân răng, kềm xâm lấn tối thiểu đặc biệt và thậm chí cả kềm trẻ em, được sử dụng để nhổ răng sau cùng.
Sau khi loại bỏ cẩn thận răng, nạo và rửa sạch ổ răng được thực hiện để làm sạch. Bất kỳ mô hạt nào và/hoặc tổn thương quanh chóp hiện có đều được loại bỏ. Việc thăm dò mặt ngoài được thực hiện, để xác định sự hiện diện hay thiếu xương ổ răng. Mẹo lâm sàng và hữu ích để xác định độ dày của mô mềm là sử dụng một cây đo túi nha chu bên trong ổ răng và kiểm tra xem nó có thể nhìn thấy dưới xuyên qua các mô mềm hay không. Nếu có, ghép mô mềm có thể được chỉ định. Nếu không thấy thì mô mềm thường đủ dày.
Trong trường hợp không có hoặc xương mặt ngoài cực kỳ mỏng (cũng có thể nhìn thấy khi kiểm tra CBCT), chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng màng collagen có nguồn gốc từ lợn không liên kết chéo và có thể tiêu (BioGide®, Geistlich, Wolhusen, Thụy Sĩ) bên trong ổ răng, với kỹ thuật “sửa chữa ổ răng”, theo đề xuất của Elian và cộng sự. Phần tròn được để bên ngoài ổ răng, để đậy trên vật liệu sinh học tiêu được đặt bên trong ổ răng (Case lâm sàng cụ thể ở bên dưới). Một chất thay thế xương (các tác giả thích sử dụng chất khoáng xương bò đã khử khoáng với 10% collagen; BioOss® Collagen, Geistlich) được đặt vào ổ răng, thấm ướt máu, để lấp đầy hoàn toàn. Nén xương bằng dụng cụ nhồi hình bầu dục hoặc tròn là rất quan trọng, vì để vật liệu rời bên trong ổ răng có thể không giữ đủ thể tích. Phần còn lại của màng được xoay để che lỗ mở mặt nhai và nhét bên dưới nướu khẩu cái. Khi có xương mặt ngoài, chẳng hạn như ở răng sau hoặc bị mất xương mặt ngoài tối thiểu, thông thường không cần sử dụng màng. Ổ răng được lấp đầy bằng chất thay thế xương và bịt kín.

Hiếm khi cần phải khâu đóng nguyên phát. Theo Horowitz và cộng sự, không có bằng chứng mạnh mẽ nào ủng hộ việc sử dụng mảnh ghép mô mềm hoặc thậm chí là khâu đóng nguyên phát trên ổ răng.
Ổ răng có thể được seal lại để bảo vệ mảnh ghép bằng các kỹ thuật khác nhau, tùy thuộc vào tình huống lâm sàng. Nếu một phục hình cố định được đặt, liên kết hoặc gắn xi măng vào răng liền kề, nhịp cầu răng phải được sửa soạn theo hình trứng và áp lực nhẹ lên ổ nhổ răng. Có thể đặt một nút collagen đơn giản và chi phí thấp để bảo vệ mảnh ghép, đặc biệt là ở các răng cối lớn hàm trên, nơi chỉ khâu hình số tám cũng có thể hỗ trợ giữ mảnh ghép tại chỗ.
Mảnh ghép mô mềm có thể được sử dụng làm vật liệu bịt kín ổ răng, tự thân (thường được lấy từ lồi củ) hoặc chất thay thế mô mềm, với thiết kế cụ thể để bịt kín ổ răng.
Khớp tạm thời được điều chỉnh, nếu có, được sử dụng để tránh áp lực lên ổ răng ghép. Sau khi lành thương mô mềm ban đầu, một nhịp cầu hình trứng có thể dần dần được sử dụng để bắt đầu điều chỉnh emergence profile chính xác của phục hồi trong tương lai, hỗ trợ xác định vị trí implant.
Sau thời gian lành thương từ 5–6 tháng, một CBCT mới sẽ được chụp, đồng thời đánh giá khối lượng và chất lượng xương. Trong nhiều trường hợp, có thể thực hiện implant không vạt do tình trạng tốt của xương và mô mềm. Nếu cần ghép thêm, một vạt được thiết kế theo ý muốn của bác sĩ lâm sàng. Implant được đặt theo cách thông thường.
Đôi khi có thể gặp xương mềm hơn, nhưng điều này thường xảy ra khi sử dụng vật liệu ghép xương kém, vật liệu không được nhồi chính xác vào ổ răng hoặc thời gian từ khi ghép ổ răng đến khi đặt implant quá ngắn.
3. Case report: bảo tồn gờ xương
CASE 1
Một người đàn ông 40 tuổi đến phòng khám với mối quan tâm về thẩm mỹ. Khi kiểm tra lâm sàng, người ta nhận thấy rằng răng nanh hàm trên bên trái bị thiếu và răng cối nhỏ thứ nhất đã di chuyển về phía gần. Có hiện tượng tụt niêm mạc, để lộ chân răng sẫm màu trên răng cối nhỏ. Ngoài ra, tất cả các răng phía trước (răng nanh hàm trên đến răng nanh) đều cần phục hình mới (Hình 9.1 và 9.2). Sau khi kiểm tra X-quang, người ta kết luận rằng răng cối nhỏ đầu tiên cần được nhổ bỏ. Cân nhắc đặt implant tức thì, nhưng rủi ro thẩm mỹ cao.


Quyết định được đưa ra là thực hiện quy trình nhổ răng không lật vạt và bảo tồn xương ổ, để tránh mất xương đáng kể và cải thiện chất lượng mô mềm. Sau khi thiết kế nụ cười thẩm mỹ liên quan đến các răng bên cạnh, một implant sẽ được đặt để thay thế răng nanh hàm trên bên trái bị mất.
Quá trình nhổ được thực hiện với việc sử dụng periotome và SDI Luxator #3. Cẩn thận để không làm hư các gai nướu ở mặt gần và mặt xa của răng cối nhỏ (Hình 9.3 và 9.4). Việc thăm dò ổ răng ngay sau khi nhổ răng cho thấy thiếu tấm xương mặt ngoài, xác nhận bằng kết quả chụp X quang.


Các vật liệu được chọn cho quy trình bảo tồn xương ổ là một chất thay thế xương ghép (90% xương bò đã khử khoáng và 10% collagen lợn), một màng tiêu collagen hai lớp và một chất thay thế mô mềm (collagen lợn) (Hình 9.5). Màng được cắt theo kỹ thuật được mô tả bởi Elian và cộng sự, trong đó một phần được đặt bên trong ổ răng (trên mặt ngoài) và một phần tròn nằm ngoài, được gấp lại trên vật liệu ghép và bịt kín ổ răng (Hình 9.6 và 9.7). Màng hai lớp ngăn chặn sự phát triển sớm của mô mềm, hỗ trợ quá trình tái tạo xương và mô mềm.



Sau khi đặt màng cẩn thận, mảnh ghép được đặt thấm máu, lấp đầy hoàn toàn ổ răng (Hình 9.8 và 9.9). Phần màng còn lại được gấp lại trên lỗ nhổ răng và nhét dưới niêm mạc khẩu cái, bịt kín ổ răng (Hình 9.10). Chất thay thế mô mềm sau đó được định vị trên màng và khâu vào các mép mô mềm, sử dụng chỉ khâu Vicryl 5-0 (Hình 9.11 và 9.12).




Năm tháng sau thủ thuật, ổ răng đã lành hoàn toàn, với các đường viền mô mềm đầy đủ. Một vết lõm nhỏ được nhận thấy ở mặt ngoài, do áp lực quá mức của phục hình tạm trong giai đoạn lành thương (Hình 9.13).
Implant được đặt và phục hồi bằng một giao thức chịu lực thông thường (3 tháng sau khi đặt). Có thể nhận thấy một đường viền tốt trước khi đặt phục hình (Hình 9.14). Phục hình sau cùng đã được đặt và đạt được kết quả thẩm mỹ (Hình 9.15).

CASE 2
Một bệnh nhân nữ 38 tuổi đến với phàn nàn chính về sự di động ở răng cửa giữa hàm trên bên trái. BN cũng có nhiều phục hình liền kề, với đường viền bị thiếu và kết quả thẩm mỹ kém (Hình 9.16 và 9.17).


Một CBCT cho thấy một vết nứt dọc của răng cửa giữa hàm trên bên trái, với thấu quang quanh chóp. Có một tấm xương mỏng ở phía ngoài và không có đủ xương phía chóp để cố định implant tức thì (Hình 9.18). Ngoài ra, cần phải đánh giá thẩm mỹ toàn diện trước khi đặt implant thay thế răng cửa giữa bên trái.

Theo đánh giá thẩm mỹ, rủi ro được coi là cao. Quyết định thực hiện quy trình bảo tồn gờ xương đã được đưa ra.
Một trong những nhược điểm của quy trình bảo tồn gờ xương là thời gian chờ đợi lâu cho đến khi có thể tạo phục hình sau cùng. Do đó, tất cả các nỗ lực phải được thực hiện để tạo ra một phục hình tạm ổn định để sử dụng trong thời gian lành thương, đặc biệt là trong vùng thẩm mỹ. Các phục hồi trên các răng bên cạnh đã được loại bỏ, các sửa soạn mới đã được thực hiện, và một phục hình tạm thời được gắn xi măng trên răng cửa giữa bên phải và trên răng cửa bên trái đã được tạo ra, chuẩn bị cho việc nhổ răng cửa giữa bên trái.
Việc nhổ răng được thực hiện dưới gây tê tại chỗ, sử dụng periotome và Luxator SDI #3. Việc điều trị được thực hiện sao cho gây sang chấn ít nhất có thể, bảo tồn các gai nướu lân cận (Hình 9.19 và 9.20). Thăm dò ổ răng sau khi nhổ răng cho thấy có một tấm xương mặt ngoài còn nguyên vẹn với kiểu hình mô mềm dày. Do đó, không cần sử dụng màng trên mặt ngoài hoặc mảnh ghép mô mềm. Một vật liệu ghép xương thay thế (90% xương bò đã khử khoáng và 10% collagen lợn), thấm đẫm máu, được đặt và nén bên trong ổ răng bằng dụng cụ nhồi (Hình 9.21–9.24). Phục hình tạm với một nhịp cầu hình trứng được thực hiện, tạo áp lực nhẹ và seal ổ răng sau khi ghép (Hình 9.25).




Năm tháng sau khi lành thương, một implant không lật vạt đã được lên kế hoạch, với một mảnh ghép mô liên kết để cải thiện độ lõm mặt ngoài (Hình 9.26). CBCT cho thấy thể tích xương rất tốt (Hình 9.27). Khi thực hiện các quy trình bảo tồn gờ xương, một mảnh ghép mô mềm bổ sung có thể được chỉ định tại thời điểm đặt implant, để bù đắp cho sự tái cấu trúc theo chiều ngang. Có thể sử dụng các chất thay thế mô mềm hoặc mô tự thân.


Implant được đặt dưới gây tê tại chỗ. Sau khi đặt implant theo phương pháp không vạt, một túi nhỏ được chuẩn bị ở mặt ngoài, để tạo khoảng trống cho mảnh ghép mô mềm tự thân (Hình 9.29). Mảnh ghép mô liên kết tự thân được lấy từ lồi củ, đặt vào túi bên ngoài, dưới màng xương và khâu tại chỗ bằng chỉ nylon 6-0 (Hình 9.28).

Vì đã đạt được độ ổn định ban đầu tốt, nên một abutment healing tùy chỉnh đã được sử dụng, để bắt đầu định hình đường viền mô mềm trong quá trình lành thương (Hình 9.30). Một phục hình tạm tức thì cũng có thể là một lựa chọn, nhưng vì bệnh nhân đã có một phục hình tạm ổn định nên quyết định được đưa ra là không mạo hiểm với quy trình chịu lực tức thì, thay vào đó là quá trình lành thương thông thường. Phục hình sau cùng được thực hiện ba tháng sau khi đặt implant, đạt được kết quả cải thiện về mặt thẩm mỹ và chức năng (Hình 9.31).


Tự học RHM
Website: https://tuhocrhm.com/
Facebook: https://www.facebook.com/tuhocrhm
Instagram: https://www.instagram.com/tuhocrhm/
4. Thảo luận
Chỉ định cho một kỹ thuật bảo tồn gờ xương rất rộng. Ngay cả trong những trường hợp có thể đặt implant tức thì, quyết định ghép ổ răng và chờ đợi, và đặt implant trong quy trình thứ hai, có thể là một lựa chọn khả thi và dễ đoán hơn. Thời gian lành thương lâu hơn (4-5 tháng) trước khi đặt implant, cộng với 2-3 tháng để tích hợp xương, là những bất lợi, cũng như thiếu sự lành thương đồng đều. Một số bệnh nhân lành thương khác với những bệnh nhân khác và mỗi ổ răng có cấu trúc giải phẫu khác nhau, ảnh hưởng đến kết quả. Lựa chọn vật liệu cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình lành thương, chất lượng và khối lượng xương cuối cùng.
Nhu cầu sử dụng màng cũng đã được thảo luận. Khiếm khuyết càng lớn thì nhu cầu sử dụng màng càng lớn, ngay cả trong kỹ thuật không lật vạt . Kalsi và cộng sự, Al Yafi và cộng sự, và Cardaropoli và cộng sự đã xác định một phân loại lâm sàng của các ổ nhổ răng và đề xuất các mô hình tương tự để xác định kỹ thuật phẫu thuật được sử dụng với một khiếm khuyết cụ thể.
Thực hiện bảo tồn xương ổ bằng kỹ thuật không vạt dường như là kỹ thuật ưa thích của hầu hết các tác giả. Tuy nhiên, không có bằng chứng rõ ràng về kết quả vượt trội với các vật liệu ghép xương khác nhau, sử dụng màng và sử dụng vật liệu bít kín ổ răng.
Có thể cần phải thực hiện thêm quy trình tăng thể tích xương và/hoặc mô mềm tại thời điểm đặt implant. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, implant có thể được đặt. Một cân nhắc khác là nếu việc bảo tồn thể tích xương ổ không thành công xảy ra, người ta vẫn có cơ hội thực hiện quy trình GBR đồng thời tại thời điểm đặt implant.
Một ưu điểm lớn khác của kỹ thuật bảo tồn xương ổ là tránh ghép theo giai đoạn. Khi răng được nhổ ra và không có sẵn xương để implant tức thì, nếu ổ răng được để lành mà không có bất kỳ sự can thiệp nào thì tình trạng tiêu xương nghiêm trọng có thể xảy ra, gây khó khăn cho việc đặt implant. Có thể chỉ định ghép GBR theo nhiều thì hoặc ghép xương khối, dẫn đến quy trình xâm lấn nhiều hơn, nhiều rủi ro hơn, tốn kém hơn và mất nhiều thời gian hơn cho đến khi phục hình sau cùng được thực hiện.
5. Kết luận
Kỹ thuật bảo tồn xương ổ là một quy trình tương đối đơn giản, có thể được thực hiện một cách an toàn bởi hầu hết các bác sĩ lâm sàng được đào tạo, mang lại kết quả thành công lâu dài. Kỹ thuật phẫu thuật cẩn thận và lựa chọn vật liệu là những mặt quan trọng có thể ảnh hưởng đến kết quả. Cả bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân phải hiểu rằng việc sử dụng phương pháp bảo tồn xương ổ (ghép ổ răng) làm trì hoãn việc đặt implant từ 3 đến 6 tháng. Đồng thời, nó thường mang lại thể tích xương và mô mềm dễ dự đoán hơn và cải thiện cơ hội đặt implant lý tưởng.
Nguồn: Tolstunov, L. (2023). Essential techniques of alveolar bone augmentation in implant dentistry: A Surgical Manual. Wiley-Blackwell.