Khi mọi người hỏi loại implant nào tốt nhất, thật khó để trả lời. Tuy nhiên, một điều khá rõ ràng là cách implant được tạo ra sẽ ảnh hưởng đến cách nó hoạt động, giống như cấu tạo của một chiếc ô tô ảnh hưởng đến cách nó vận hành. Có nhiều yếu tố thiết kế implant có thể ảnh hưởng đến hiệu suất của implant. Ví dụ, thiết kế ren implant có thể tăng hoặc giảm độ ổn định ban đầu của implant, hợp kim implant có thể tăng hoặc giảm khả năng tích hợp xương của implant, hình dạng và chiều dài của kết nối abutment có thể làm cho mối nối implant-abutment ít hoặc thân thiện hơn với phục hình. Bài này sẽ xem xét cụ thể những yếu tố tương quan trực tiếp với sự ổn định của mào xương.
Nghiên cứu đã xác định được hai yếu tố thiết kế implant chính rất quan trọng trong zero bone loss: (1) có hay không có cổ implant được đánh bóng và (2) kết nối implant – abutment hoặc khe hở vi mô. Những yếu tố thiết kế này đã được chọn là quan trọng nhất đối với sự tồn tại của implant và sự ổn định của mào xương thông qua sự kết hợp giữa nghiên cứu lâm sàng và thực hành hàng ngày. Mỗi implant hai phần đều có các đặc điểm này; do đó, chúng có liên quan đến mọi trường hợp lâm sàng. Điều này rất quan trọng vì hiểu được các yếu tố này ảnh hưởng như thế nào đến sự mất xương hoặc sự ổn định của xương sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn implant.
1. Hiểu biết về các hệ thống implant
Sự ổn định của mào xương đòi hỏi bác sĩ lâm sàng phải thực sự biết và hiểu loại implant đang được sử dụng. Một nửa số trường hợp dẫn đến mất xương sẽ không bị như vậy nếu implant được đặt chính xác vào xương. Để làm được điều này, bác sĩ lâm sàng phải biết rõ về hệ thống. Ví dụ: nếu hệ thống sử dụng chuyển tiếp chuyển bệ, sự khác biệt về đường kính giữa abutment và bệ implant là bao nhiêu? Theo một nghiên cứu của Canullo và cộng sự, phải ít nhất là 0,4 mm. Nếu nhỏ hơn nữa (có nghĩa là implant và abutment có kích thước gần tương đương nhau) thì sự xâm nhập của vi khuẩn sẽ không bị dịch chuyển ra xa khỏi xương, nghĩa là implant thực sự hoạt động giống như implant tiêu chuẩn mặc dù được gắn nhãn và bán như có chuyển tiếp chuyển bệ. Chắc chắn có những implant trên thị trường có sự không nhất quán này. Một ví dụ khác, có quy tắc nào về cách đặt implant ngang xương mà không cần chuyển tiếp chuyển bệ không? Cụm từ “ngang xương” cho thấy rằng nó nên được đặt ở mào xương, nhưng khi đó khe hở vi mô của implant sẽ ở ngang xương, điều đó có nghĩa là vi khuẩn có thể cư trú trong implant, điều này không lý tưởng.
Vì vậy, độ sâu của mỗi implant hoàn toàn phụ thuộc vào các yếu tố thiết kế của nó kết hợp với kiến thức của bác sĩ. Sự khác biệt trong thiết kế bắt đầu với cổ implant và kết nối implant-abutment (Hình 2-1). Các câu hỏi tiếp theo cần đặt ra là: Những thiết kế implant này có khác nhau về hiệu quả không? Điều gì sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định của mào xương ngay lập tức và theo thời gian?

2. Cổ implant được đánh bóng
Cổ implant được đánh bóng là một yếu tố xác định trong nguyên nhân mất mào xương sớm. Trước đây, cổ implant được sản xuất với bề mặt được đánh bóng để giảm tích tụ mảng bám nếu implant tiếp xúc với môi trường miệng do tiêu xương ổ răng. Tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng nghiên cứu mức độ xương xung quanh các implant có cổ được đánh bóng đã cho thấy xu hướng tiêu mô cứng khi tiếp xúc với các bề mặt được đánh bóng. Hämmerle và cộng sự đã báo cáo rằng implant ITI Dental Implant System, có bề mặt được đánh bóng, không duy trì được xương khi được phục hình, mặc dù đã được đặt dưới mào xương. Shin và cộng sự tìm thấy kết quả tương tự, kết luận rằng implant có cổ thô ít bị mất xương hơn so với implant có cổ nhẵn (Hình 2-2).

Hänggi và cộng sự đã báo cáo rằng các thiết kế implant với vòng cổ nhẵn ngắn hơn có thể giúp giảm nguy cơ lộ viền implant kim loại ở những vùng thẩm mỹ vì những implant này không bị mất thêm xương. Những kết luận này đã được xác nhận trong một nghiên cứu gần đây của PeñarrochaDiago và cộng sự, trong đó tình trạng mất xương sau 6 và 12 tháng đã chứng minh sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa hai nhóm, với sự mất xương tương đối nhiều hơn liên quan đến implant có cổ đánh bóng, không có vi ren và có kết nối bên ngoài so với implant có bề mặt được xử lý, vi ren, kết nối trong và chuyển tiếp chuyển bệ.
Cơ chế bệnh sinh của mất xương liên quan đến bề mặt được đánh bóng được mô tả trong bài báo tổng quan của Wiskott và Belser. Người ta đưa ra giả thuyết rằng các bề mặt implant được đánh bóng không thể phân bổ hiệu quả lực nhai giữa xương và bề mặt titan nhẵn; thay vào đó, stress shield được tạo ra, dẫn đến mất xương. Người ta đã quan sát thấy rằng xương phát triển lên trên các implant dưới mào xương, như có thể được ghi nhận trong quá trình phẫu thuật ở giai đoạn hai, nhưng sau khi chịu lực phục hình, xương sẽ tiêu vào ren đầu tiên của implant. Do đó, mất xương do cổ được đánh bóng có thể được mô tả là quá trình tiêu xương không chức năng vì quá trình tiêu xảy ra khi không có sự phân bố áp lực lên xương. Tuy nhiên, khi đó sẽ phát sinh câu hỏi, ứng suất được phân bố như thế nào trong các implant Brånemark ban đầu, khi tất cả đều được đánh bóng. Nếu titan được đánh bóng không thể chuyển lực nhai cho xương và kích thích xương giữ nguyên vị trí, thì tại sao những implant này lại tích hợp xương? Câu trả lời là mặc dù các implant đã được đánh bóng (chính xác là được gia công (machined), nhưng phần implant nằm trong xương có các ren có khả năng phân bổ lực cho xương.
Jung và cộng sự đã cung cấp thêm bằng chứng về sự tiêu xương liên quan đến các bề mặt được đánh bóng, họ đã chứng minh tình trạng mất xương trên diện rộng xung quanh các implant có cổ được đánh bóng dài 3 mm. Ngoài ra, các nghiên cứu về implant một khối (one piece), bỏ qua ảnh hưởng của khe hở vi mô, đã phát hiện ra rằng ngang xương được thiết lập ở ranh giới bề mặt nhẵn-nhám bất kể độ sâu của vị trí implant. Vì vậy, có thể kết luận rằng cổ implant được đánh bóng là một yếu tố căn nguyên trong cơ chế bệnh sinh của tiêu mào xương (Hình 2-3 và 2-4). Điều này không nhất thiết có nghĩa là implant sẽ bị mất do tiêu xương xung quanh cổ được đánh bóng, nhưng sự tiêu xương này vẫn nên tránh bất cứ khi nào có thể. Hơn nữa, đã có báo cáo rằng implant ngang mô, thường có diện đánh bóng từ 1,8 đến 2,8 mm, chỉ có 1,5% thất bại implant sớm trước khi tải và 2,0% thất bại implant muộn trong 9 năm theo dõi. Do đó, cổ implant được đánh bóng nên được đặt ngang với xương, bởi vì nếu nó được đặt sâu hơn, xương cuối cùng sẽ tiêu đến giao điểm giữa bề mặt nhẵn-gồ ghề, bất kể độ sâu của vị trí implant (Hình 2-5 đến 2-7).
Tóm lại, bài học đầu tiên trong việc zero bone loss là không đặt implant có cổ bóng dưới ngang xương, vì xương ở vùng cổ răng sẽ bị mất.



3. Khe hở vi mô (Microgap )
Mặc dù không phải tất cả các implant đều có cổ được đánh bóng, nhưng tất cả các implant hai phần đều có một khe hở vi mô hoặc một điểm nối nơi implant gặp abutment. Đây là một phần quan trọng trong thiết kế implant tạo ra sự khác biệt về độ ổn định của xương. Có những người thích sử dụng implant một khối, bỏ qua ảnh hưởng của khe hở này. Về lý thuyết, implant một mảnh này sẽ không bị mất mào xương liên quan đến ảnh hưởng của kết nối implant-abutment.
Tuy nhiên, implant một khối không cho thấy mức độ mất xương thấp hơn và thiết kế của chúng có một lỗ hổng nghiêm trọng là chỉ có thể đặt các phục hình gắn xi măng. Hơn nữa, tất cả các implant một khối đều có một đường undercut, điều này ngăn cản việc loại bỏ xi măng dư thừa sau khi gắn xi măng.
Khe hở vi mô có liên quan đến tình trạng mất mào xương, và tất cả các implant hiện đại đều có khe hở này, bởi vì thiết kế hai khối cho phép linh hoạt trong quá trình điều trị phục hình, mang lại sự tự do phục hình implant theo cách mà nha sĩ yêu cầu. Ngoài ra, sử dụng implant hai khối cho phép sửa chữa các lỗi phẫu thuật, chẳng hạn như vị trí hoặc góc của implant. Do đó, kết nối implant-abutment và microgap là những đặc điểm cần thiết cho implant hiện đại.
Yếu tố này trong sự ổn định của mào xương có lẽ được thảo luận nhiều nhất trong các tài liệu về implant. Có rất nhiều nghiên cứu trên động vật và các bài báo lâm sàng phân tích tác động của khe hở này đối với xương, chứng tỏ mối quan tâm khoa học và lâm sàng lớn đối với chủ đề này. Mối quan hệ giữa kết nối implant-abutment và sự ổn định của mào xương là gì? Để trả lời câu hỏi này, microgap phải được xem từ hai quan điểm: như một nguồn tích tụ vi khuẩn và như một nguồn vi chuyển động (Hình 2-8).

Tích tụ vi khuẩn

Vi khuẩn xâm nhập vào implant như thế nào khi implant được sản xuất vô trùng? Implant hai khối chắc chắn bị nhiễm bẩn bên trong và có một số cơ hội để sự nhiễm khuẩn này xảy ra: (1) trong khi đặt implant; (2) trong giai đoạn phục hình; và (3) trong quá trình lỏng abutment sau một thời gian hoạt động.
Đã có tài liệu ghi nhận rằng các implant chứa chất bẩn hình thành trong quá trình đặt implant, do một lượng nhỏ nước bọt hoặc máu lọt vào bên trong implant và sau đó không thể loại bỏ bằng quy trình làm sạch thông thường. Làm sạch bên trong implant hoặc sử dụng gel chlorhexidine có thể được khuyến nghị sau khi đặt implant, khi cover được kết hoặc khi đặt abutment healing (Hình 2-9).
Kích thước khe hở vi mô
Một yếu tố quan trọng là kích thước của microgap. Các thí nghiệm đã chứng minh rằng kích thước của khe hở có thể khác nhau giữa các hệ thống implant và abutment. Kano và cộng sự đã báo cáo rằng độ lệch theo chiều ngang của giao diện abutment – implant có thể nằm trong khoảng từ 75 đến 103 µm, tùy thuộc vào loại abutment, trong khi độ lệch theo chiều dọc được ghi nhận là nhỏ hơn, từ 0 đến 11 µm. Dibart và cộng sự đã tìm thấy một khe hở vi mô chỉ 0,5 µm trong các hệ thống implant locking taper, được coi là có kết nối “không có vi khuẩn” vì các vi sinh vật có đường kính lớn hơn 0,5 µm. Tầm quan trọng của kích thước của khe hở vi mô đã được chứng minh bằng các nghiên cứu in vitro cho thấy sự nhiễm bẩn vi sinh của toàn bộ hệ thống implant là do rò rỉ ở giao diện implant-abutment. Do đó, khe hở vi mô có thể được coi là một “cánh cổng” mà qua đó vi khuẩn có khả năng thoát ra ngoài.
Sự ổn định
Sự ổn định của kết nối implant-abutment là một yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến sự lây nhiễm vi khuẩn vì sự dịch chuyển cho phép vi khuẩn thoát ra ngoài và làm hỏng xương; bản thân chuyển động cũng có thể gây bất lợi cho mào xương.
Có nhiều loại kết nối khác nhau, bao gồm kết nối ngoài, phẳng và bên trong, nhưng kết nối hình nón dường như mang lại sự ổn định tốt nhất. Sử dụng kết nối hình nón luôn được khuyến nghị, nhưng độ ổn định của kết nối thậm chí còn quan trọng hơn khi implant được đặt dưới mào xương (Hình 2-10 và 2-11).


Hermann và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu liên quan đến kết nối implant-abutment và nguyên nhân của việc mất xương viền sớm. Trong thí nghiệm trên động vật này, 60 implant được đặt vào năm con chó săn. Các implant hai khối có kích thước khe hở vi mô khoảng 10, 50 và 100 µm, và một nhóm các implant được hàn bằng tia laser với nhau, ngăn chặn bất kỳ chuyển động nào giữa thân implant và abutment. Nhóm các implant được thử nghiệm khác có cùng kích thước khe hở vi mô, nhưng các abutment chỉ được kết nối bằng vít phục hình. Kết quả cho thấy rằng tất cả implant trong nhóm không hàn đều tăng đáng kể tiêu mào xương so với implant có abutment hàn laze. Do đó, người ta đã kết luận rằng các vi chuyển động giữa implant và abutment phục hình có thể liên quan với tình trạng mất xương hơn là kích thước của khe hở vi mô.
Trong một thí nghiệm tiếp theo, King và cộng sự đã xác nhận kết luận của nghiên cứu trước đó, nói rằng sự ổn định của kết nối implant-abutment là một đặc điểm rất quan trọng trong việc ngăn ngừa tiêu xương. Ảnh hưởng của sự mất ổn định của giao diện abutment implant đối với tình trạng mất xương được cho là có hai mặt. Đầu tiên, người ta đề xuất rằng khi lực nhai tác dụng lên implant có kết nối abutment không ổn định, hiệu ứng bơm sẽ duy trì dòng vi khuẩn liên tục từ bên trong implant qua khe hở nhỏ đến các mô quanh implant. Hành động như vậy góp phần hình thành thâm nhiễm tế bào viêm, tạo thành cơ sở cho sự mất xương liên quan đến khe hở. Giả thuyết thứ hai cho rằng bản thân vi chuyển động của abutment có thể gây ra sự tiêu của mào xương ở giữa các răng.
Do đó, vi khuẩn bên trong implant và vi chuyển động tạo ra sự rò rỉ vi khuẩn tại giao diện abutment implant. Sự rò rỉ này là nguyên nhân dẫn đến sự thâm nhiễm tế bào viêm trong các mô mềm tiếp giáp với khe hở, như được mô tả trong nhiều nghiên cứu mô học trên động vật. Ericsson và cộng sự gọi đó là mô liên kết bị thâm nhiễm do abutment và cho rằng sự hiện diện của nó cho thấy phản ứng của vật chủ với nhiễm khuẩn bởi các thành phần bên trong abutment.
Sự hình thành thâm nhiễm có thể là cơ chế bảo vệ xương quanh implant. Trong một loạt các thí nghiệm trên động vật, Hermann và cộng sự đã xác nhận rằng việc đặt giao diện abutment – implant ngang ngang xương hoặc về phía chóp có thể dẫn đến giảm đáng kể xương viền (Hình 2-12). Cơ chế bệnh sinh của mất xương liên quan đến microgap được mô tả bởi Broggini et al. Mô hình tích lũy bạch cầu trung tính quanh implant cho thấy rằng một kích thích hóa học bắt nguồn từ khe hở vi mô của implant hai khối sẽ bắt đầu và duy trì việc kết tập các tế bào viêm . Những tế bào này thúc đẩy sự hình thành hủy cốt bào, có thể dẫn đến mất xương. Giả thuyết này đã được xác nhận trong một thí nghiệm sau đó cho thấy khả năng của các implant được đặt ở phía chóp nhiều hơn sẽ tích tụ nhiều bạch cầu trung tính hơn và nhiều chứng viêm hơn và do đó gây ra nhiều mất xương hơn. Nhìn chung, người ta kết luận rằng xương có thể tụt tới 2 mm để duy trì khoảng cách thích hợp với nguồn lây nhiễm.

Vị trí của khe hở
Piattelli và cộng sự đã báo cáo không có sự tiêu xương nếu khe nằm ở vị trí 1,0 đến 2,0 mm trên mào xương ổ răng và mất 2,1 mm nếu khe hở ngang với mào xương ổ răng. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu được đề cập trước đây đều là thí nghiệm trên động vật, không có vị trí cao trong hệ thống phân cấp bằng chứng. Các nghiên cứu lâm sàng đã khẳng định rằng implant có khe hở vi mô không có kết nối implant-abutment ổn định sẽ bị mất mào xương nếu chúng được đặt ngang xương. Linkevicius và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu lâm sàng có kiểm soát trong đó hai implant có kết nối abutment – implant phù hợp được đặt liền kề nhau. Implant thử nghiệm được đặt ở vị trí trên xương khoảng 2 mm và implant kiểm soát được đặt ở mức mào xương. Việc đặt implant ở ngang xương là một quy trình tiêu chuẩn được khuyến nghị bởi phần lớn các nhà sản xuất và nghiên cứu. Quy trình phục hình bằng phục hình cố định sứ kim loại được bắt đầu sau thời gian lành thương 2 tháng ở hàm dưới và 4 tháng ở hàm trên. Kết quả cho thấy sau 1 năm hoạt động, implant đối chứng (tức là với khe hở vi mô được đặt ở ngang xương) bị tiêu xương 1,68 mm (Hình 2-13). Nếu implant được đặt quá sâu trong xương, tình trạng tiêu xương sẽ xảy ra sau khi làm phục hình, thậm chí trước 1 năm kiểm tra (Hình 2-14).


Đặt trên xương với kết nối phẳng
Hai giải pháp được khuyến nghị để tránh mất mào xương liên quan đến microgap, tùy thuộc vào thiết kế implant. Đầu tiên, có thể hợp lý khi đặt implant có kết nối phẳng, không hình nón về phía trên mào xương (Hình 2-15). Todescan và cộng sự đã đề xuất định vị implant trên xương với chuyển tiếp phẳng để tạo khoảng cách cho khe hở vi mô ra khỏi xương và giảm tiêu mào xương. Linkevic˘ius và cộng sự đã chỉ ra rằng các implant định vị trên xương trong biotype mô mềm dày có lượng xương tiêu là 0,68 mm, thấp hơn so với các implant tương tự được đặt ở ngang mào xương. Trên thực tế, kinh nghiệm lâm sàng cho thấy xương ổn định quanh implant được đặt trên xương sau 10 năm theo dõi (Hình 2-16).

Tuy nhiên, 0,68 mm vẫn là một lượng tiêu xương đáng kể. Một lý do có thể khiến tình trạng mất xương vẫn xảy ra là do vị trí implant trên xương có thể làm lộ ra bề mặt gồ ghề của implant. Bề mặt gồ ghề có nguy cơ đáng kể về sự xâm nhập và bám dính của mảng bám, có thể gây viêm và dẫn đến mất xương (Hình 2-17). Vì lý do này, cần phải nhấn mạnh rằng các implant được đặt ở vị trí trên xương mà không cần chuyển tiếp chuyển bệ phải có cổ được đánh bóng từ 0,5 đến 1 mm.

Chuyển tiếp chuyển bệ
Đặc điểm về thiết kế implant quan trọng nhất đã được giới thiệu ra thị trường là chuyển tiếp chuyển bệ. Những người ủng hộ chuyển tiếp chuyển bệ cho rằng đặc điểm thiết kế implant này là yếu tố quan trọng nhất trong việc ngăn ngừa mất xương và các implant chuyển tiếp chuyển bệ sẽ không bị tiêu xương. Chuyển tiếp chuyển bệ cho phép di chuyển vi khuẩn ra khỏi mô xương theo hướng nằm ngang, về phía implant (Hình 2-18 và 2-19). Tác dụng của nó tương tự như đề xuất đặt implant dịch chuyển về phía trên xương khoảng 1 mm, nhưng trong trường hợp này, cách ly khe hở vi mô theo hướng nằm ngang.


Khái niệm chuyển tiếp chuyển bệ liên quan đến abutment hoặc cấu trúc bên trên có đường kính nhỏ hơn đường kính implant ở bệ implant. Cấu hình này dẫn đến một bước ngang theo chu vi, cho phép mở rộng theo chiều ngang của khoảng sinh học. Cơ sở lý luận cho việc chuyển tiếp chuyển bệ là để định vị vị trí khe hở của kết nối abutment – implant cách xa khu vực tiếp xúc giữa xương và implant. So với quy trình phục hình truyền thống sử dụng chuyển tiếp phẳng và trên xương, việc chuyển tiếp chuyển bệ được đề xuất để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tình trạng mất mào xương.
Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã báo cáo tác động tích cực của việc chuyển tiếp chuyển bệ đối với sự ổn định của mào xương. Việc giảm mất xương dường như tương quan với độ lệch kích thước giữa implant và abutment. Trong một nghiên cứu lâm sàng tiền cứu liên quan đến 69 implant ở 31 bệnh nhân, Canullo và cộng sự đã tìm thấy lượng xương mất đi là 1,49 mm ở implant có abutment phẳng, 0,99 mm ở implant có step 0,2 mm, 0,82 mm với step 0,5 mm và 0,56 mm với step 0,85 mm. Do đó, tác động tích cực đối với sự tiêu xương sau 33 tháng phẫu thuật implant lớn hơn khi bước chuyển lớn hơn (Hình 2-20).

Dữ liệu từ các nghiên cứu mô học và lâm sàng trong phòng thí nghiệm, động vật hoặc con người đã xác nhận vai trò quan trọng của khe hở vi mô giữa implant và abutment trong việc tái cấu trúc mào xương quanh implant. Vela-Nebot và cộng sự đã nghiên cứu độ ổn định của mào xương quanh 30 implant với bệ chuyển tiếp 0,45 và 0,5 mm (thử nghiệm) và 30 implant với kết nối thông thường (đối chứng). Kiểm tra chụp X quang theo dõi trong 1 năm cho thấy mức độ mất xương trung bình trung bình là 2,53 mm đối với nhóm đối chứng và 0,76 mm đối với nhóm thử nghiệm. Giá trị tiêu xương trung bình quan sát được ở phía xa là 2,56 mm đối với nhóm đối chứng và 0,77 mm đối với nhóm thử nghiệm. Các tác giả kết luận rằng implant chuyển tiếp chuyển bệ đã giảm đáng kể tình trạng mất xương so với nhóm đối chứng.
Vi chuyển đông
Ngăn ngừa vi khuẩn xâm nhập vào xương chỉ là một yếu tố trong quá trình ổn định mào xương. Yếu tố quan trọng khác là giảm các chuyển động vi mô. Về mặt logic, cần có một kết nối ổn định giữa implant và abutment để giảm các vi chuyển động, nhưng làm thế nào để đạt được điều đó? Giải pháp đơn giản nhất là chọn loại kết nối tốt nhất. Có nhiều loại kết nối khác nhau tùy thuộc vào góc và độ dài của phần hình nón bên trong của implant. Người ta thường chấp nhận rằng góc nghiêng càng nhỏ thì kết nối sẽ càng ổn định và ít chống lại các chuyển động ngang hơn (xem Hình 2-10). Kết nối côn Morse có góc nghiêng từ 2 đến 4 độ. Các thương hiệu implant nổi tiếng nhất tận dụng kết nối này là Ankylos và Bicon, và các hệ thống khác cũng sử dụng chúng. Loại kết nối hình nón thứ hai là kết nối hình nón rộng với góc nghiêng từ 5 đến 20 độ, được sử dụng bởi Straumann, Nobel, MIS và các thương hiệu implant khác. Nhóm thứ ba có góc hơn 20 độ, trên thực tế không được gọi là kết nối hình nón mà là kết nối bên trong hoặc phẳng (Hình 2-21).

Một nghiên cứu nổi tiếng của Zipprich và cộng sự đã phát hiện ra rằng góc nghiêng càng dốc thì abutment càng ít chuyển động. Ngoài ra, implant kết nối hình nón được ủng hộ, nói rằng sự ổn định của kết nối là yếu tố quan trọng nhất để không bị tiêu xương. Chuyển động tại điểm nối giữa implant và abutment tạo ra hiệu ứng giống như máy bơm, đẩy vi khuẩn ra ngoài và gây tiêu xương. Ngoài ra, bản thân việc vận động đã gây hại cho xương nên phản ứng tiêu cực tăng lên gấp bội. Khi có ít chuyển động hơn ở phần kết nối abutment – implant, ít vi khuẩn thoát ra khỏi implant hơn và ít gây viêm hơn. Tuy nhiên, một kết nối hình nón dốc ngăn cản thực hiện phục hình cầu răng, đây là một bất lợi.
4. Kết luận
Một cách tiếp cận cơ học đối với sự ổn định của xương thông qua thiết kế implant gợi ý rằng việc chuyển tiếp chuyển bệ và kết nối hình nón tại điểm nối implant-abutment là những yếu tố quan trọng nhất để giữ cho xương ổn định. Tất nhiên, không có nghi ngờ gì về việc những yếu tố này là quan trọng, nhưng để khẳng định rằng các vấn đề cơ học là yếu tố liên quan duy nhất thì đơn giản là không nhìn thấy bức tranh đầy đủ. Có rất nhiều bằng chứng về sự ổn định của xương liên quan đến implant có chuyển tiếp phẳng và kết nối trong đơn giản.
Hình 2-22 cho thấy một trường hợp lâm sàng minh họa rằng các yếu tố thiết kế implant cơ học không phải là yếu tố quan trọng duy nhất trong sự ổn định của xương. Trường hợp này sử dụng implant chuyển tiếp chuyển bệ với kết nối côn Morse, được coi là rất ổn định, giống như “hàn lạnh”. Implant được đặt trong một tình huống lâm sàng lý tưởng: gờ xương ổ răng rộng, nướu dính hơn 2 mm và vị trí implant hơi dưới mào xương. Implant Ankylos cung cấp khả năng chuyển tiếp chuyển bệ đáng kể, vì vậy hiệu quả của việc giữ vi khuẩn tránh xa xương là điều hiển nhiên. Kết nối côn Morse sẽ hạn chế bất kỳ chuyển động nào và ngăn cản mọi quá trình tái cấu trúc xương do kích thước của khe hở vi mô. Phim chụp X quang tại thời điểm đặt cho thấy xương ổn định xung quanh các implant đã đặt; tuy nhiên, quá trình tiêu xương xảy ra sau 2 tháng. Điều này cho thấy rằng các yếu tố thiết kế implant cơ học không phải là tất cả, bởi vì xương đã bị mất mặc dù kết nối lý tưởng.

Ngoài ra, sự mất xương này không thể là do tình trạng giải phẫu kém. Hơn nữa, phim chụp X quang khi đặt cho thấy một lượng lớn mào xương bị mất, điều này không thể giải thích được nếu chỉ xem xét các yếu tố thiết kế implant có liên quan. Vì vậy, những gì đã bị bỏ qua trong trường hợp này? Câu trả lời là sinh học. Các chương sắp tới thảo luận về các yếu tố sinh học tiềm ẩn này, chẳng hạn như độ dày của mô mềm theo chiều dọc và cách chúng ảnh hưởng đến sự ổn định của xương. Ví dụ, trường hợp trong Hình 2-23 thể hiện tình huống với implant chuyển tiếp chuyển bệ có kết nối hình nón. Implant được đặt ở ngang xương trong cả hai trường hợp; tuy nhiên, một phương pháp dẫn đến sự ổn định hoàn hảo của xương, trong khi phương pháp kia dẫn đến mất xương. Đây là lý do tại sao cần phải xem xét toàn bộ bức tranh lâm sàng.

Take-Home Messages
Cổ implant được đánh bóng không tích hợp xương và sẽ gây tiêu xương nếu nằm dưới mào xương.
Khe hở vi mô gây bất lợi cho xương do rò rỉ vi khuẩn và vi chuyển động của abutment bên trong implant.
Chuyển tiếp chuyển bệ dịch chuyển microgap vào trong theo hướng nằm ngang, giữ cho vi khuẩn không rò rỉ ra khỏi xương. Kết nối hình nón mang lại sự ổn định cho mối nối implant-abutment, nhưng sự ổn định này không đảm bảo rằng sẽ không bị tiêu xương
Nguồn: Linkevičius, T., Puišys, A., Andrijauskas, R., & Ostrowska-Suliborska, B. (2020). Zero Bone Loss Concepts. Quintessence Publishing Co. Inc.