1. Ngoại tiêu do viêm
1.1. Giới thiệu
Ngoại tiêu do viêm (External inflammatory resorption – EIR) ảnh hưởng đến bề mặt của chân răng và là một di chứng tương đối thường xuyên của tổn thương trật khớp và răng rơi khỏi ổ. Đây là một tình trạng với khởi phát tiềm ẩn và có khả năng tiến triển nhanh chóng, đến mức toàn bộ bề mặt chân răng có thể bị tiêu trong vòng vài tháng nếu răng không được điều trị. Nó cũng ảnh hưởng đến các răng được chẩn đoán mắc viêm nha chu quanh chóp mãn tính
Điều trị lâm sàng của EIR dựa trên việc loại bỏ hiệu quả tác nhân gây bệnh; cụ thể là mô tủy bị nhiễm trùng hoại tử. Việc điều trị nên được tiến hành ngay sau khi quá trình tiêu chân được chẩn đoán. EIR được chẩn đoán và điều trị càng sớm thì tiên lượng càng tốt. Việc chẩn đoán EIR trong các tình huống lâm sàng chỉ dựa trên ảnh chụp X quang. Trong một số trường hợp, các dấu hiệu X quang ban đầu của EIR có thể được thấy sớm nhất là 2 tuần sau khi trồng lại răng đã rơi khỏi ổ. Tuy nhiên, những hạn chế của chụp ảnh X quang thông thường trong nha khoa đã được báo cáo. Những hạn chế này có thể dẫn đến chẩn đoán muộn của EIR sau chấn thương răng. EIR thường liên quan đến mức độ nghiêm trọng của tổn thương trật khớp.

1.2. Căn nguyên và bệnh sinh của quá trình ngoại tiêu
Cơ chế bệnh sinh của EIR có thể được giải thích như sau. Chấn thương làm ảnh hưởng PDL, quá trình chữa lành vết thương diễn ra, trong đó các tế bào hủy xương và đại thực bào được thu hút đến vị trí chấn thương để loại bỏ mô bị tổn thương. Vết thương ban đầu xâm phạm tính toàn vẹn của lớp tiền xê măng bảo vệ. Điều này cho phép odontoclasts (1 trong những đại bào đa nhân có chức năng gây tiêu chân răng sữa) liên kết và làm tiêu lớp xê măng và ngà răng đã khoáng hóa bên dưới. Tuy nhiên, EIR khác với sự tiêu bề mặt ở chỗ nó là một sự kiện tiến triển dựa trên sự kích thích của vi sinh vật từ tủy răng bị hoại tử. Do đó, nó thường liên quan đến tình trạng răng rơi khỏi ổ và các chấn thương trật khớp từ trung bình đến nặng, có khả năng ảnh hưởng đến sức sống của tủy răng. Nếu hủy cốt bào đủ mạnh để làm tiêu và bộc lộ các ống ngà dưới lớp xi măng, một mối liên hệ sẽ được tạo ra giữa tủy răng, bề mặt chân răng bên ngoài và các mô nha chu lân cận. Vi sinh vật và các hóa chất (lipopolysaccharide, muramyl dipeptide, và lipoteichoic acid) sẽ lan vào ống tủy và các ống ngà, kích thích trực tiếp các tế bào hủy cốt bào. Quá trình tiêu chân được tăng tốc. Mô khoáng được thay thế bằng mô hạt, cuối cùng sẽ xâm lấn tủy răng nếu quá trình này tiếp tục. Áp lực lên bề mặt chân răng trong quá trình điều trị chỉnh nha và từ răng mọc kẹt, nang, và khối u cũng có thể cũng loại bỏ lớp tiền xê măng bảo vệ khỏi bề mặt chân răng và do đó bắt đầu ERR.
1.3. Đặc điểm lâm sàng
Răng có thể trông bình thường, nhưng sẽ không đáp ứng ứng tích cực với thử tủy. Trong những trường hợp nặng, có thể có các dấu hiệu của tủy và/hoặc viêm quanh chóp (ví dụ: răng đổi màu, có xoang và / hoặc đau khi gõ và / hoặc sờ nắn)
1.4. Đặc điểm X quang
Như đã đề cập, chẩn đoán EIR chỉ dựa trên ảnh X quang. EIR được đặc trưng bởi các hình ảnh thấu quang có vết lõm hình bát, lòng chảo, và đôi khi rách hình chén dọc theo bề mặt chân răng. Sự mất hoàn toàn của lớp lamina dura được nhìn thấy ở vùng tiêu chân. TDI (traumatic dental injury) liên quan đến các mô nha chu nếu phát triển, EIR luôn được nhìn thấy trong vòng 1 năm sau chấn thương. EIR có thể khởi phát nhanh chóng và tiến triển tích cực, như vậy có thể xảy ra quá trình tiêu toàn bộ chân răng trong vòng 3 tháng.
1.5. Điều trị
Điều trị lâm sàng của EIR dựa trên việc loại bỏ hiệu quả tác nhân gây bệnh, mô tủy bị nhiễm trùng hoại tử. Điều này ngăn chặn quá trình tiêu và tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc sửa chữa mô cứng của bề mặt chân răng bị tổn thương. Vì vậy, điều cần thiết là phải tiến hành điều trị tủy răng ngay khi xác định được các dấu hiệu X quang của EIR. Một ngoại lệ cho điều này là răng được trồng lại với các chóp đóng; trong những trường hợp này, điều trị tủy răng nên được thực hiện từ 7 đến 10 ngày sau khi trồng lại, ngay cả khi không có dấu hiệu chụp X quang của EIR. Việc chẩn đoán và điều trị tiêu chân càng sớm thì tiên lượng răng càng tốt. Nếu không chẩn đoán và điều trị tình trạng này có thể dẫn đến mất răng. Sự làm sạch ống tủy là cơ bản cho sự thành công của điều trị tủy răng và ức chế, chấm dứt EIR. Việc băng thuốc ống tủy bằng canxi hydroxit trong thời gian dài có thể có lợi khi điều trị EIR; tuy nhiên, phác đồ này nên được sử dụng một cách thận trọng vì có liên quan đến nguy cơ gãy chân răng. Trong nhiều trường hợp, EIR rộng, khiến răng không thể chữa và cần phải nhổ răng.
1.6. Theo dõi và tiên lượng về ngoại tiêu
Sự chữa lành của EIR được đặc trưng bằng hình ảnh X quang bằng cách chấm dứt quá trình tiêu, có khoảng thấu quang xương bên cạnh và tái lập PDL. Như đã đề cập trước đây, trong những trường hợp không được điều trị, EIR có thể tiến triển nhanh đến mức toàn bộ chân có thể bị tiêu trong vòng 3 tháng. Tiên lượng đặc biệt xấu đối với những răng chưa trưởng thành không được điều trị.
2. Ngoại tiêu cổ chân răng
2.1. Giới thiệu
Ngoại tiêu cổ chân răng (ECR) là hình thức tiêu chân răng bắt nguồn từ bề mặt bên ngoài chân răng nhưng có thể xâm lấn vào ngà chân răng theo bất kỳ hướng nào và mức độ khác nhau. ECR thường phát triển ngay đáy của biểu mô dính với răng. Ở những răng khỏe mạnh có phần bám dính nha chu bình thường, phần này nằm ở vùng cổ răng. Tuy nhiên, ở những răng bị tụt nướu và mất hỗ trợ nha chu và / hoặc đã phát triển một biểu mô kéo dài, thì khiếm khuyết có thể phát sinh ở vị trí về phía chóp hơn.
2.2. Căn nguyên và Sinh bệnh học
Căn nguyên chính xác và cơ chế bệnh sinh của ECR vẫn chưa được làm sáng tỏ đầy đủ. Người ta chấp nhận rằng quá trình tiêu chân đối với ECR cũng giống như đối với bất kỳ loại tiêu nào khác: có lỗ hổng giữa lớp bảo vệ không khoáng hóa để cho phép các tế bào clastic liên kết với ngà răng bên dưới, và các tế bào tương tự phải được kích thích để duy trì quá trình. Tuy nhiên, trong ECR chỉ xác định được một số yếu tố làm cho bề mặt chân bị mất toàn vẹn. Cấu trúc giải phẫu của phần tiếp giáp men xê măng (CEJ) có thể thay đổi, và phần này không tiếp xúc ở tất cả các răng. Điều này có thể dẫn đến các vùng lộ ra của ngà răng không được bảo vệ, dễ bị tổn thương bởi hoạt động hủy xương.
Heithersay đã nghiên cứu các yếu tố tiềm ẩn trong 257 trường hợp ECR ở 222 bệnh nhân. Điều trị chỉnh nha, chấn thương nha khoa, phẫu thuật miệng, điều trị nha chu, nghiến răng, phục hình trong vùng cổ răng, chậm mọc răng, bong men răng và các khuyết tật phát triển răng đều được xác định là các yếu tố tiềm ẩn tiềm ẩn, dù đơn lẻ hoặc kết hợp. Điều trị chỉnh nha là yếu tố nguy cơ duy nhất, phổ biến nhất được xác định, với tiền sử điều trị ở 21% bệnh nhân và 24% số răng được đánh giá. Chấn thương răng là yếu tố tiên lượng duy nhất có thể xác định được đối với ECR ở 14% số răng được kiểm tra. Có những quan điểm trái ngược nhau về cách thức mà quá trình tiêu chân được duy trì khi các tế bào clastic đã liên kết với ngà chân răng trong ECR. Một quan điểm cho rằng các vi sinh vật có nguồn gốc từ khe nướu cung cấp kích thích để tiếp tục tiêu. Giả thuyết đối lập, của Heithersay cho rằng ECR là một loại “rối loạn xơ mạch hoặc xơ xương tăng sinh lành tính” trong đó vi sinh vật không có vai trò tích cực.
2.3. Đặc điểm lâm sàng
Các đặc điểm lâm sàng của ECR là đa dạng. Quá trình này thường không có triệu chứng, đặc biệt là ở giai đoạn sớm; chẩn đoán thường là kết quả của một sự kết hợp ngẫu nhiên của X quang. Sự đổi màu hồng hoặc đỏ có thể phát triển ở vùng cổ răng. Sự đổi màu là do mô hạt xơ mạch chiếm chỗ tổn thương, có độ dày của men và ngà răng bị giảm vì mất mô cứng. Mô hạt truyền màu hồng cho răng, thông qua lớp men và ngà răng mỏng ở vùng bị tiêu. Mô hạt có thể làm thủng men hoặc ngà răng ở rìa nướu, làm xuất hiện tăng sản nướu nhẹ. Sự đổi màu, đôi khi được gọi là “đốm hồng”, có thể khó thấy. Tuy nhiên, đó là một đặc điểm tương đối hiếm của ECR. Hơn nữa, nó phải xảy ra ở vị trí có thể dễ dàng nhận biết được (ví dụ, mặt môi của răng trước) để được chú ý. Mất bám dính nha chu có thể xảy ra ở vùng tiêu, và việc thăm dò túi nha chu liên quan làm cho mô hạt chảy nhiều máu. Khi quá trình tiến triển, thành ống tủy bị thủng và nhiễm khuẩn tủy răng có thể xảy ra. Răng bị ảnh hưởng có thể bị viêm tủy răng và các triệu chứng lâm sàng liên quan. Hoại tử tủy và viêm nha chu quanh răng mãn tính cuối cùng có thể phát triển. Các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng có thể là dấu hiệu đầu tiên cho thấy răng bị ảnh hưởng có vấn đề; chúng có thể bao gồm đổi màu răng, đau cục bộ tự phát, đau khi nhai, đau khi gõ, đau khi sờ vào vùng chóp của răng, xoang chảy dịch và / hoặc sưng nướu.

2.4. Đặc điểm X quang
Sự xuất hiện trên X quang của ECR phụ thuộc vào vị trí, mức độ xâm lấn và tỷ lệ tương đối của mô xơ và mạch. Tất cả các ECR biểu hiện dưới dạng thấu quang có mật độ khác nhau, thường giới hạn ở vùng cổ răng của răng hoặc răng bị ảnh hưởng. Tổn thương có xu hướng thấu quang khi chủ yếu là mô hạt, xơ mạch. Tuy nhiên, trong những trường hợp có một số tạp chất dạng sợi (tức là những tổn thương lâu năm hơn), thấu quang có thể đục hơn. Trong những trường hợp có sự sửa chữa, sự lắng đọng đáng kể của mô sợi-xương làm cho khiếm khuyết có hình ảnh cản quang lốm đốm. Các rìa của tổn thương có thể thay đổi từ kém đến mờ, tùy thuộc vào độ sâu của khiếm khuyết và tỷ lệ và sự phân bố của chất dạng xương trong tổn thương. Mặc dù các tổn thương có rìa không đều phổ biến hơn, nhưng một số khiếm khuyết ECR có thể có rìa nhẵn và / hoặc gồ ghề. Mặc dù vị trí thường là cổ răng, ECR có thể ở phía chóp của vùng này, phản ánh vị trí của biểu mô tiếp xúc với răng. Hơn nữa, sự phá hủy mô tại vị trí khởi phát đôi khi có thể rất ít và / hoặc không rõ ràng trên phim X quang do vị trí của nó trên bề mặt chân răng.
Các đặc điểm chụp ảnh X quang của ECR rất giống với các đặc điểm của ECR bên trong (sẽ thảo luận ở phần sau), và việc phân biệt giữa chúng, đặc biệt là trong trường hợp không có dấu hiệu lâm sàng, có thể là một thách thức. Trong trường hợp ECR, đường viền của thành ống tủy phải được nhìn thấy và nguyên vẹn và phải duy trì hướng đi của nó khi nó đi qua vùng bị tiêu. Nguyên nhân là do tổn thương cơ học nằm ở mặt ngoài của chân răng và không thông với ống tủy; nó chỉ đơn thuần là chồng lên trên phương diện bức xạ. Trong trường hợp IRR (nội tiêu), có thể xác định đường viền của ống tủy thông với tổn thương. Mặc dù đây là một đặc điểm chẩn đoán hữu ích, nhưng nó có một số thiếu sót. Đầu tiên, đường viền của thành ống tủy có thể bị che khuất bởi mô vôi hóa trong phần bị tiêu (ECR hoặc IRR). Thứ hai, khi ECR dẫn đến phá hủy mô rộng, thủng thành ống tủy có thể cho phép sự thông thương giữa thành ống và tổn thương bên ngoài.
2.5. Điều trị
Các mục tiêu điều trị cơ bản trong ECR là để loại bỏ khiếm khuyết của răng, tạm dừng quá trình tiêu, phục hồi khiếm khuyết mô cứng bằng vật liệu thẩm mỹ, ngăn ngừa và theo dõi tái phát.
Điều trị nội nha đối với răng bị ảnh hưởng là cần thiết khi quá trình tiêu đã làm thủng thành ống tủy. Việc tiếp cận bằng phẫu thuật lật vạt, cho phép hình dung toàn bộ mức độ khiếm khuyết. Sau khi đã lật vạt, vùng bị tiêu sẽ được nạo. Mô hạt xơ mạch được loại bỏ dễ dàng bằng cây nạo bằng tay. Tuy nhiên, các khiếm khuyết có chứa một lượng đáng kể mô sợi xương (đặc biệt là khi mô sau này tiếp giáp với ngà răng bên cạnh) đòi hỏi phải loại bỏ mô bằng các dụng cụ siêu âm. Có thể rất khó để phân biệt giữa ngà răng và sợi xương; do đó, việc sử dụng kính hiển vi phẫu thuật là điều cần thiết. Chụp X quang thường xuyên trong phẫu thuật có thể là cần thiết để đảm bảo loại bỏ chính xác các mô không mong muốn và ngăn ngừa việc loại bỏ các mô răng khỏe mạnh không cần thiết. Sau khi mô biến dạng đã được loại bỏ, khoang này có thể được xử lý bằng dung dịch nước 90% axit trichloracetic; điều này gây ra hoại tử do đông máu của mô răng mà không làm tổn thương mô nha chu. Axit cũng thâm nhập và xử lý các vùng tiêu nhỏ mà thiết bị cơ học không thể tiếp cận được. Khi tổn thương đã được nạo và xử lý bằng axit trichloroacetic, bất kỳ ngà răng nào bị phá hủy hoặc men ở ngoại vi của khoang được loại bỏ bằng tay khoan tốc độ cao và khoang được phục hồi bằng vật liệu phục hồi có thể chấp nhận được về mặt thẩm mỹ, chẳng hạn như nhựa composite hoặc xi măng thủy tinh. Nhựa sinh học có thể được chứng minh là một vật liệu đặc biệt thích hợp để phục hồi các khuyết tật này vì nó có thể kết hợp tính thẩm mỹ chấp nhận được với khả năng hỗ trợ gắn PDL. Sau khi khoang đã được phục hồi, vạt được đặt lại và cố định. Nếu đã xảy ra thủng thành ống tủy thì nên tiến hành điều trị tủy. Cần tiếp cận hệ thống ống tủy với đê cao su trước khi đánh giá sự tiêu chân. Ống tủy nên được chuẩn bị ở khu vực bị tiêu như bình thường, sử dụng nước muối để rửa. Sau đó, một côn gutta-percha (GP) nên được đặt trong ống tủy để duy trì tính ổn định của nó trong quá trình thăm dò và phục hồi và để cung cấp một rào cản ngăn phục hình cuối cùng không xâm lấn ống tủy. Đê cao su được tháo ra và có thể tiến hành phẫu thuật điều trị tổn thương như đã mô tả, mà không có bất kỳ nguy cơ nào về việc mô nhiễm xâm nhập vào hệ thống ống tủy. Sau khi đặt lại vị trí của vạt, điều trị tủy răng có thể được hoàn thành theo cách bình thường mà không sợ mô bị nhiễm trùng, chất bơm rửa hoặc thuốc đi vào mô nha chu. Heithersay ủng hộ cách tiếp cận không phẫu thuật để điều trị ECR. Trong kỹ thuật này, dung dịch 90% của axit trichloroacetic được dùng cho mô ở chỗ ảnh hưởng cho đến khi hoại tử đông máu xảy ra. Mô hoại tử sau đó được nạo, và phần này được phục hồi bằng xi măng thủy tinh ionomer. Việc điều trị ECR phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng, mức độ và vị trí và khả năng phục hồi của răng.




3. Nội tiêu
3.1. Căn nguyên và sinh bệnh học của nội tiêu
Để xảy ra IRR, lớp nguyên bào ngà và tiền ngà phải bị tổn thương, dẫn đến việc lớp ngà đã được khoáng hóa bên dưới tiếp xúc với odontoclast. Các sự kiện chính xác cần thiết để gây ra tổn thương như vậy vẫn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn. Các yếu tố căn nguyên khác nhau đã được đề xuất, bao gồm chấn thương, sâu răng và nhiễm trùng nha chu, nhiệt độ quá cao tạo ra trong quá trình phục hình trên răng sống, quy trình canxi hydroxit, cắt bỏ chân răng sống, điều trị chỉnh hình răng, nứt răng, hoặc đơn giản là loạn dưỡng vô căn. Như đã đề cập, tổn thương lớp nguyên bào ngà và lớp tiền ngà là điều kiện tiên quyết để bắt đầu quá trình nội tiêu. Tuy nhiên, sự tiến triển của quá trình phụ thuộc vào sự kích thích của vi khuẩn đối với các tế bào clastic tham gia vào quá trình tiêu mô cứng. Nếu không có sự kích thích này, sự tiêu sẽ tự giới hạn. Để IRR tiếp tục, mô tủy về phía chóp của tổn thương phải có nguồn cung cấp máu; điều này cung cấp các tế bào clastic và chất dinh dưỡng của chúng, và mô tủy răng bị hoại tử bị nhiễm trùng cung cấp kích thích cho các tế bào clastic đó. Vi khuẩn có thể xâm nhập vào ống tủy thông qua các ống ngà, sâu răng, vết nứt, gãy và ống tủy bên. Trong trường hợp không có sự kích thích của vi khuẩn, sự tiêu chỉ là thoáng qua và có thể không tiến tới giai đoạn có thể chẩn đoán được trên lâm sàng và X quang. Do đó, mô tủy ở phía chóp của tổn thương là yếu tố quan trọng để tổn thương tiến triển. Nếu không được điều trị, hiện tượng nội tiêu có thể tiếp tục cho đến khi mô nhiễm trùng lấp đầy vùng bị tiêu, làm cho tổn thương dần lan về phía chóp. Cuối cùng, nếu không được điều trị, mô tủy ở phía chóp của tổn thương sẽ bị hoại tử và vi khuẩn lây nhiễm toàn bộ hệ thống ống tủy, dẫn đến viêm nha chu quanh chóp.
3.2. Đặc điểm lâm sàng
Các đặc điểm lâm sàng của IRR phần lớn phụ thuộc vào tình trạng mô học của tủy răng bị ảnh hưởng, mức độ phá hủy mô cứng do quá trình tiêu và vị trí của vùng tiêu trong ống tủy.
Trong giai đoạn tiêu tích cực, sự nhiễm vi khuẩn vào mô tủy sống có thể gây ra phản ứng cấp tính, dẫn đến các triệu chứng lâm sàng của viêm tủy răng. Với sự khởi phát của hoại tử tủy và sự xâm nhập của vi khuẩn, các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng liên quan đến viêm quanh chóp cấp tính hoặc mãn tính có thể phát triển. Sự tiêu hủy nhiều của tủy răng có thể dẫn đến đổi màu hồng hoặc đỏ có thể nhìn thấy qua thân răng của răng bị ảnh hưởng; nguyên nhân là do mô u hạt mở rộng vào và chiếm chỗ khiếm khuyết của vùng bị tiêu. Mặc dù thường được báo cáo như một dấu hiệu lâm sàng phổ biến của quá trình này, nhưng những đốm hồng này thực sự rất hiếm trong các trường hợp IRR. Chúng có thể xảy ra tương đối thường xuyên hơn trong các trường hợp ECR, nhưng chúng cũng không phổ biến lắm. Thường thì răng bị ảnh hưởng không có triệu chứng và không có dấu hiệu lâm sàng.
3.3. X quang
Việc chẩn đoán bất kỳ loại tiêu chân nào phụ thuộc vào sự hiện diện của nó trên ảnh chụp X quang. Các tác giả đã mô tả tổn thương IRR là hình bầu dục, hình tròn bao quanh liên tục với thành ống tủy. IRR có thể xảy ra ở bất kỳ vị trí nào trong hệ thống ống tủy và có thể biểu hiện trên X quang dưới dạng hình ảnh thấu quang với hình dạng, mật độ bức xạ, đường viền và sự đối xứng thay đổi liên quan đến ống tủy.

3.4. Điều trị
Khi đã có chẩn đoán IRR, phải đánh giá mức độ phá hủy mô cứng và đưa ra quyết định lâm sàng về tiên lượng của răng bị ảnh hưởng. Nếu răng bị ảnh hưởng có thể cứu vãn được và có tiên lượng hợp lý, điều trị tủy răng là cần thiết. Cũng như bất kỳ răng bị nhiễm trùng nào, mục đích chính của việc điều trị tủy răng là loại bỏ vi khuẩn nội tủy và sát trùng tủy răng. Nếu quá trình thay đổi tế bào vẫn hoạt động, việc điều trị phục vụ một mục đích bổ trợ, đó là loại bỏ mô tủy sống ở phía chóp đang kích thích các tế bào gây tiêu. Bản chất của quá trình tiêu trong các trường hợp IRR đặt ra cho bác sĩ nội nha những thách thức. Ở những răng có hiện tượng tiêu chân tích cực, chảy máu nhiều do u hạt và mô tủy có thể làm giảm khả năng quan sát trong giai đoạn đầu điều trị và có thể gây xuất huyết nhẹ khi cố gắng làm khô ống tủy sau khi chuẩn bị hóa chất. Hơn nữa, bản chất lõm không đều của các vùng tiêu làm cho chúng không thể tiếp cận để làm sạch cơ học trực tiếp.
Khử khuẩn ống tủy
Việc sử dụng dụng cụ siêu âm để hỗ trợ chất bơm rửa nội nha đã được chứng minh là cải thiện việc loại bỏ các mảnh vụn hữu cơ và màng sinh học ra khỏi ống tủy. Tuy nhiên, ngay cả khi sử dụng biện pháp bổ trợ này, vi khuẩn vẫn có thể tồn tại trong các khu vực bị tiêu sau khi bơm rửa. Vì vậy, nên sử dụng thuốc kháng khuẩn trong ống tủy để giảm tải lượng vi sinh vật và cải thiện việc khử trùng ống tủy. Canxi hydroxit là một loại thuốc nội nha kháng khuẩn, đã được chứng minh là có khả năng loại bỏ vi khuẩn khi điều trị tủy răng. Ngoài ra, khi được sử dụng cùng với natri hypoclorit, nó làm tăng tác dụng của chất bơm rửa đó trong việc loại bỏ các mảnh vụn hữu cơ từ hệ thống ống tủy. Dựa trên bằng chứng này, các tác giả ủng hộ việc sử dụng canxi hydroxit như một loại thuốc kháng khuẩn, nội tủy để bổ sung cho quá trình khử cơ hóa học thông thường của hệ thống ống tủy.
Trám bít ống tủy
Để trám bít vùng nội tiêu, vật liệu phải có khả năng chảy. Gutta-percha được nhiều người coi là vật liệu tiêu chuẩn vàng trong nội nha. Nó có thể hóa dẻo khi có áp lực và trở nên chảy khi tác dụng nhiệt. Nếu xảy ra thủng, MTA nên được coi là vật liệu được lựa chọn để sửa chữa thành chân răng. Tuy nhiên, các thuộc tính chảy của MTA kém hơn đáng kể so với các thuộc tính của GP gia nhiệt. Việc sử dụng nó như một vật liệu hiệu quả trong IRR phụ thuộc vào việc kích hoạt siêu âm đầy đủ vật liệu để phân tán nó vào các hốc của vùng bị tiêu. Sử dụng kính hiển vi phẫu thuật nha khoa và thiết bị phù hợp để đưa vật liệu vào là điều cần thiết. Cũng có thể sử dụng kỹ thuật lai để bịt kín các ống tủy bị ảnh hưởng bị thủng. Trong những trường hợp này, chóp ống tủy được lấp đầy bằng GP. GP sau đó có thể được sử dụng như một rào cản.
Các tình huống lâm sàng phát sinh trong đó một nội tiêu gây thủng gây ra sự phá hủy mô cứng răng sâu rộng mà không đáp ứng hoặc không thể sửa chữa bằng phương pháp thông thường. Điều trị phẫu thuật có thể cần thiết trong những trường hợp này. MTA sẽ là vật liệu được lựa chọn để sửa chữa những lỗ thủng này. Trong trường hợp chưa được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật, trước tiên người thực hiện phải tiếp cận ống tủy như đối với điều trị thông thường. Sau đó, một côn GP hoặc một dụng cụ có kích thước thích hợp được định vị trong ống tủy để bít ổng tủy và tạo ra một rào cản mà MTA có thể được đóng gói khi phẫu thuật tiếp cận được với khiếm khuyết. Hàng rào này cũng ngăn chặn sự lắng đọng của MTA vào một phần ba chóp của ống tủy. Lỗ thủng sau đó được phẫu thuật để lộ ra ngoài và sửa chữa bằng MTA. Ống tủy có thể được tạo hình, khử trùng và bịt kín bằng GP dẻo nhiệt sau khi MTA đông. Nếu quá trình phục hồi đã gây ra sự phá hủy mô quá mức khiến răng không thể phục hồi được, thì nhổ răng là lựa chọn điều trị thích hợp nhất.
Nguồn:
- Hargreaves, K. M., Cohen, S., & Berman, L. H. (2016). Cohen’s pathways of the pulp. St. Louis, Mo: Mosby Elsevier.
- Hình ảnh case lâm sàng: Brice Riera, nhóm Style Italiano Endodontics (https://www.facebook.com/groups/styleitalianoendodontics/permalink/4161029433973707/)