2.4. SỨ THẤM THỦY TINH (GLASS INFILTRATED CERAMICS)
Đây là những loại sứ chuyên dụng được gia cố thêm bằng quy trình thấm thủy tinh.
Phân loại
Hiện nay có ba loại tùy thuộc vào vật liệu lõi được sử dụng.
- Lõi nhôm thấm thủy tinh (In-Ceram Alumina).
- Lõi spinell thấm thủy tinh (In-Ceram Spinell).
- Lõi zirconia thấm thủy tinh (In-Ceram Zirconia).
Thành phẩm
Bột oxid (alumin, spinell hoặc zirconia) với hỗn hợp chất lỏng, bột thủy tinh và sứ phủ

.
2.4.1. NHÔM OXID THẤM THỦY TINH (IN-CERAM ALUMINA)
Hệ thống sứ này có một quy trình thấm thủy tinh riêng biệt và là hệ thống đầu tiên thuộc loại này được dùng làm cầu răng cho răng trước. Quá trình thấm thủy tinh bù đắp cho sự co lại khi nung. Vật liệu cuối cùng sau khi hoàn thành quá trình thấm thủy tinh được tạo thành từ khoảng 70% alumin và 30% thủy tinh (natri lantan).
Chỉ định
1. Mão răng trước và răng sau
2. Cầu răng ngắn cho răng trước.
Thành phần

Chế tạo

Ưu điểm
1. Khít sát mô răng và đường hoàn tất
2. Độ bền tốt so với tất cả các mão sứ trước đây. Được khẳng định là đủ mạnh để làm mão răng đơn lẻ cho răng sau và cầu răng cho răng trước.
Nhược điểm
1. Tương đối kém thẩm mỹ hơn vì độ mờ của lõi nhôm.
2. Quá trình chế tạo khá đơn giản.
3. Không phải tất cả các cầu răng đều thành công, một vài trong số chúng thỉnh thoảng bị gãy.
Chỉ định
1. Ngoài các inlays, onlays, veneera và mão chịu lực nhai yếu (răng trước và răng sau), vật liệu này có thể được sử dụng để chế tạo các cầu răng chịu lực nhai yếu cho răng trước. Do xu hướng thường xuyên bị gãy khi được sử dụng làm cầu răng, việc sử dụng nó nên được lựa chọn cẩn thận.
2. Những người dị ứng với phục hình có kim loại.
3. Yêu cầu thẩm mỹ không quan trọng.
2.4.2. SPINELL THẤM THỦY TINH (IN-CERAM SPINELL)
In-Ceram Spinell là một nhánh của In-Ceram Alumina. Do độ mờ tương đối cao của nhôm, một vật liệu mới đã được giới thiệu được gọi là Spinell In-Ceram. Nó sử dụng spinel (MgAl2O4) thay vì nhôm oxid. Quá trình chế tạo khá giống với In-Ceram Alumina.
In-Ceram Spinell mờ hơn và do đó thẩm mỹ hơn so với In-Ceram Alumina. Vì độ cứng thấp hơn, việc sử dụng nó được giới hạn trong các trường hợp chịu lực nhai nhỏ.
Chỉ định
Độ trong suốt cao của nó làm cho nó trở thành vật liệu được lựa chọn cho mão răng và phục hình thẩm mỹ (mão răng trước) và các vùng không chịu lực.
Chống chỉ định
Độ trong mờ cao chống chỉ định trong những trường hợp cấu trúc răng bên dưới bị đổi màu nghiêm trọng và cần được che đậy. Độ cứng thấp của nó cũng chống chỉ định nó cho các trường hợp răng sau và cầu răng.
2.4.3. ZIRCONIA THẤM THỦY TINH (IN-CERAM ZIRCONIA)
Zirconia (ZrO2) là một khoáng chất tự nhiên. Tinh thể của Zirconia được dùng thay thế cho kim cương. In-Ceram Zirconia là vật liệu mạnh nhất trong số ba vật liệu thấm thủy tinh. Các lõi ICZ thấm thủy tinh chứa khoảng 30% trọng lượng zirconia và 70% trọng lượng nhôm.
Chỉ định
Độ bền cao của nó làm cho nó trở thành vật liệu được lựa chọn cho mão răng sau và cầu răng ngắn ở vùng chịu lực cao (cầu răng sau).
Nó không thích hợp cho các vùng thẩm mỹ vì độ mờ của nó lớn hơn.
Tuy nhiên, trong những trường hợp có sự đổi màu nghiêm trọng, In-Ceram Zirconia giúp che đi cấu trúc răng bị đổi màu vì độ mờ của nó lớn hơn.
2.5. SỨ CAD/CAM
Làm mão sứ nha khoa là kỹ thuật nhạy cảm, tốn nhiều công sức và thời gian. Chế tạo mão răng sứ bằng máy đã được giới thiệu để vượt qua một số vấn đề này.
Hệ thống sứ chế tác bằng máy có thể được chia thành hai loại
1. Hệ thống CAD / CAM
2. Hệ thống copy milled
2.5.1. Hệ thống CAD / CAM
Đây là những hệ thống có thể thiết kế và tạo ra các phục hồi sứ với sự trợ giúp của máy tính. CAD / CAM là từ viết tắt của computer aided design – computer aided manufacturing
Lịch sử của CAD / CAM
Sự phát triển chính trong lĩnh vực CAD / CAM đã diễn ra vào những năm 1980, bị ảnh hưởng bởi ba người tiên phong. Đầu tiên là Duret, chế tạo mão thông qua các quy trình thực hiện trên dấu quang học của răng đã mài cùi. Việc tiện được thực hiện bởi một máy phay điều khiển số hóa (tiền thân của cad / cam hiện đại). Người tiên phong thứ hai là Mörmann, nhà phát triển hệ thống CEREC tại Đại học Zurich. Một máy tiện với thông tin được lấy từ ảnh chụp trong miệng. Với hệ thống này, thuật ngữ CAD / CAM phát triển nhanh chóng trong ngành nha khoa. Thứ ba là Andersson, nhà phát triển hệ thống Procera vào những năm 1980.
Người Nhật cũng phát triển nhiều hệ thống vào những năm 1980 nhưng những thứ này không thành công về mặt thương mại vì sự kháng cự từ các công ty bảo hiểm y tế. Các hệ thống ban đầu đã phải vượt qua nhiều vấn đề bao gồm thiếu điện, độ chính xác ĐHT kém, v.v. Các hệ thống CAD / CAM hiện tại đã đi một chặng đường dài. Với những cải tiến về công nghệ, vật liệu và phần mềm, chế tạo phục hồi cũng chính xác hơn và thân thiện với người vận hành. Hệ thống CAD / CAM hiện là một phần của nha khoa hàng ngày.
Hệ thống CAD / CAM có sẵn trên thị trường
Nhiều hệ thống hiện đang có sẵn bằng nhiều kỹ thuật và vật liệu.
Một số ví dụ về các hệ thống CAD / CAM có sẵn trên thị trường là – CEREC (SIRONA), Sirona Inlab, Everest (Kavo), Cercon (Dentsply), Lava (3M ESPE), Zeno (Weiland), 5-TEC (Zirkonzahn), v.v.\
Cơ bản của hệ thống CAD / CAM
Hệ thống CAD / CAM bao gồm 5 phần thiết yếu
- Máy quét – Dấu ảo
- Máy tính – Thiết kế ảo (CAD)
- Máy tiện – tạo ra sự phục hồi hoặc khung
- Phôi sứ – Nguyên liệu thô để phục hồi
- Lò – để nung, ceramming, vv
Máy quét
Kích thước của răng đã mài (hoặc mẫu hàm hoặc mẫu sáp) được số hóa để tạo ra hình ảnh 3 chiều của răng trong máy tính. Điều này đạt được bằng cách quét các răng hoặc mẫu hàm. 2 loại số hóa hiện tại là
1. Đầu dò: Tương tác vật lý với mẫu hàm, truyền thông tin tới máy tính. Ví dụ: Procera Forte
2. Máy quét quang học. Bao gồm:
- Tay cầm trong miệng: Đây là những máy quét bên cạnh ghế nha. Máy quét trong miệng phản chiếu ánh sáng (ánh sáng có thể nhìn thấy, laser hoặc led) và chụp nó bằng camera để tạo dấu quang học của răng đã mài và các cấu trúc liền kề. Nhiều hình ảnh phải được chụp để ghép với nhau tạo một hình ảnh 3D tổng hợp trong máy tính. Trong một số hệ thống, một loại bột đặc biệt được phủ để giảm phản xạ và cải thiện khả năng đọc.
- Máy quét trong lab: Đây là những thiết bị lớn hơn quét mẫu hàm hoặc die bằng các công nghệ khác nhau. Một số sử dụng máy ảnh để chụp nhiều hình ảnh tương tự như máy quét trong miệng. Những cái khác sử dụng 2 camera để chụp đối tượng từ nhiều góc bằng ánh sáng trắng (ví dụ: Kavo Everest) hoặc laser được chiếu trong một mẫu lưới. Máy quét quang Procera sử dụng chùm tia laser để đo khoảng cách (conoscopic holography).

Máy tính (quá trình CAD)
Việc khôi phục được thiết kế trong máy tính. Hầu hết các nhà sản xuất có phần mềm riêng cho quá trình CAD. Quy trình CAD hỗ trợ trong việc thiết kế phục hồi, làm sườn hoặc nền FDP. Máy tính có thể tự động phát hiện đường hoàn tất. Một số sử dụng một thư viện các hình dạng răng được lưu trữ trên máy tính để gợi ý hình dạng của phục hồi. Việc ghi lại dấu cắn cũng được thêm vào dữ liệu. Thông tin kết hợp cùng với dấu 3D của răng đã sửa soạn tạo nên vùng thích hợp để tạo hình phục hồi. Nha sĩ có thể sửa chữa hoặc sửa đổi thiết kế nếu được yêu cầu và sau đó gửi nó đến đơn vị chế tác để hoàn thành.
Milling station
Các máy tiện đã phát triển đáng kể, kể từ khi chúng được giới thiệu lần đầu tiên vào thị trường. Các máy trước đó chỉ chế tác mặt trong. Bề mặt bên ngoài phải được làm bằng tay. Máy CAD / CAM hiện tại cũng có thể mài bề mặt bên ngoài. Tín hiệu từ máy tính điều khiển máy định hình phôi sứ theo thiết kế. Để bắt đầu quá trình, phôi sứ được gắn vào máy thông qua một khung hoặc tay cầm tích hợp. Yếu tố giãn nở (nếu dùng zirconia tiền thiêu kết) cũng được tính toán. Tiện được thực hiện bởi một mũi kim cương hoặc cacbua. Máy CEREC sử dụng 2 mũi kim cương để tạo hình bề mặt bên trong và bên ngoài. Các máy khác sử dụng một mũi duy nhất di chuyển dọc theo nhiều trục (3 đến 5 trục) và thực hiện hành động tiện. Động cơ Everest (Kavo) là một ví dụ về phay 5 trục. Một số máy móc (Kavo Everest) có thể chế tác cả sứ và titan.

Phôi sứ
Một loạt các phôi sứ trong các kích cỡ, sắc thái và hình dạng khác nhau có sẵn để tiện. Nhiều đơn vị mão có thể được tiện từ các khối lớn hơn. Các khối nhỏ hơn chỉ có thể tạo ra một sườn hoặc phục hồi duy nhất. Phôi được gắn thông qua một khung hoặc bằng một hoặc nhiều tay cầm trên chính phôi đó.
Phân loại phôi sứ
- Phôi feldspathic porcelain [Vitablocs Mark II (Vita)].
- Phôi sứ thủy tinh
- Tetrasilicic fluormica based glass ceramic [Dicor MGC (Dentsply)]
- Leucite based [ProCad (Ivoclar), Everest G (Kavo)]
- Lithia disilicate glass ceramic [IPS e max CAD (Kavo)].
- Phôi sứ thấm thủy tinh
- Alumina (Vita In-Ceram Alumina)
- Spinell (Vita In-Ceram Spinell)
- Zirconia (Vita In-Ceram Zirconia).
- Phôi tiền thiêu kết
- Alumina (Vita In-Ceram AL)
- Ytrria stabilized Zirconia (Vita In-Ceram YZ).
- Phôi thiêu kết
- Ytrria stabilized Zirconia (Everest ZH blanks).
Mô tả ngắn gọn các vật liệu cho CAD/CAM
Răng đã mài được quét trực tiếp từ miệng hoặc từ một mẫu hàm. Tiếp theo, phục hồi được thiết kế trên máy tính. Phôi sứ được gắn vào máy tiện và mã vạch được quét. Thời gian thực hiện phụ thuộc vào kích thước và độ phức tạp của phục hồi cũng như vật liệu được sử dụng. Ví dụ, zirconia tiền thiêu kết dễ dàng hơn để tiện so với zirconia thiêu kết. Nó cũng làm giảm hao mòn các công cụ phay.
Sau khi tiện, cấu trúc được tách ra khỏi khối bằng cách sử dụng đĩa cắt làm mát và đĩa mài hoặc mũi khoan. Các quy trình xử lý tiếp theo sau đó được bắt đầu tùy thuộc vào vật liệu và hệ thống được sử dụng.
- Khối Feldspathic: Phôi có thể được tiện thành mão hoàn chỉnh. Phục hồi được làm bóng sau khi tiện. Xử lý tùy chọn bao gồm phủ sứ bề mặt (veneering) và stain. Sử dụng – inlays, laminates và mão răng trước.

- Leucite gia cố: Phôi có thể được tiện thành mão hoàn chỉnh. Phục hồi được tráng men sau khi tiện. Xử lý tùy chọn bao gồm phủ sứ bề mặt (veneering) và stain. Sử dụng – inlays, onlays, laminates và mão răng trước.

Lithium Disilicate: sứ được gia công ở trạng thái tinh thể trung gian trong đó vật liệu có màu xanh lam đặc trưng. Trong giai đoạn này, vật liệu dễ tạo hình hơn và có thể được thử trong miệng. Tiếp theo là một quá trình kết tinh đơn giản, nhanh chóng (30 phút) trong một lò thông thường, nó đạt đến độ cứng cuối cùng và các đặc tính thẩm mỹ mong muốn như màu răng, mờ và độ sáng. Xử lý tùy chọn bao gồm phủ sứ bề mặt và nhuộm. Sử dụng – inlays, onlays và mão răng trước và sau.

Sứ thấm thủy tinh: chúng thường được tiện thành sườn hoặc cấu trúc nền FDP. Xử lý tiếp theo bao gồm thấm thủy tinh, phủ sứ bề mặt và làm bóng. Sử dụng: In-Ceram Spinell được khuyến nghị cho các mão trước. In-Ceram Alumina được chỉ định cho mão trước, sau và FDP 3 đơn vị ở răng trước. In-Ceram Zirconia có thể được sử dụng cho mão răng trước, sau và FDP 3 đơn vị.

Zirconia tiền thiêu kết: Zirconia đặc vô cùng khó để cắt, mất tới hai giờ chỉ để chế tạo một đơn vị. Do đó, hầu hết các thao tác với zirconia được thực hiện là trên 1 phôi zirconia xốp hoặc zirconia tiền thiêu kết. Chúng thường được sử dụng làm sườn cho mão hoặc FDP. Trong điều kiện tiền thiêu kết, chúng thường mềm hơn và dễ dàng hơn để tiện. Chúng được chế tác đến một kích thước lớn hơn một chút (20%), để bù đắp cho sự co lại khi thiêu kết sau đó. Thời gian thiêu kết và nhiệt độ thay đổi giữa các thương hiệu.

- Thời gian thiêu kết – 6 đến 7,5 giờ
- Nhiệt độ thiêu kết – 1350 đến 1530 ° C
Nhiệt độ cao là cần thiết cho zirconia thiêu kết nên việc mài và điều chỉnh nên được hoàn thành trước khi thiêu kết. Điều chỉnh sau khi thiêu kết, đặc biệt là ở các kết nối làm suy yếu cấu trúc. Bất kỳ điều chỉnh nào sau khi thiêu kết nên được thực hiện với nước làm mát, không rung, kim cương mịn. Phục hồi có thể được ngâm trong chất lỏng màu đặc biệt để cải thiện thẩm mỹ. Phục hồi sau đó được tạo hình với sứ phù bề mặt tương thích. Công dụng: sườn cho mão và cầu dài ở cả răng trước và sau.
Zirconia thiêu kết: Vì những vật liệu này đã được thiêu kết hoàn toàn, không cần thiêu kết sau đó. Vật liệu này được tiện theo tỷ lệ 1: 1 vì không có co rút. Do độ cứng của nó nên tiện sẽ mất nhiều thời gian hơn và nhanh mòn máy hơn. Xử lý tiếp theo bao gồm tạo hình với sứ phủ tương thích. Công dụng: sườn cho mão và cầu dài ở trước và sau.
Lò thiêu kết
Lò là một phần quan trọng của nha khoa CAD / CAM. Một loạt các lò có sẵn tùy thuộc vào loại phôi được sử dụng. Ví dụ, phôi alumina in-ceram phải được thủy tinh xâm nhập trong lò sau khi thao tác bằng máy. Phôi leucite hoặc lithia disilicate phải được cerammed để gây ra sự kết tinh một phần. Lò cho sự thiêu kết của zirconia rất chuyên biệt vì nó liên quan đến nhiệt độ rất cao. Zirconia thiêu kết có thể liên quan đến nhiệt độ lớn hơn 1500 ° C.
2.5.2. HỆ THỐNG COPY MILLED (CAM)
Một vài hệ thống sử dụng kỹ thuật tiện sao chép để tạo ra sườn sứ hoặc cấu trúc nền của FDP. Trong hệ thống này, 1 mẫu sáp của phục hồi được scan và 1 bản sao của mẫu sáp này sẽ được tiện từ phôi sứ.
1 số hệ thống
- Celay (Mikrona AG, Spreitenbach, Switzerland).
- Cercon (Degudent, Dentsply). Cercon có cả hệ thống CAD/CAM và copy-milling.
- Hệ thống Ceramill.
Quy trình copy mill
Từ die lấy dấu:
- Tạo mẫu sáp phục hình
- Mẫu sáp được cố định ở bên trái của máy tiện (Cercon Brain)
- Phôi zirconia tiền thiêu kết được gắn vào bên phải máy. Máy đọc bar code trên phôi để xác định độ giãn nở của phôi
- Bắt đầu hoạt động, mẫu sáp bên trái sẽ được scan trong khi máy sẽ tiện phôi sứ bên phải với độ lớn hơn khoảng 30% để bù trừ cho việc co lại khi thiêu kết sau này.
- Khối sứ được tiện được lấy ra khỏi máy, cắt khỏi phôi và điều chỉnh
- Cấu trúc sứ này được cho vào lò thiêu kết trong 6h ở 1350 độ C
- Phủ sứ bề mặt cho phục hồi
2.5.3. SỨ ZIRCONIA ĐƯỢC ỔN ĐỊNH BẰNG YTTRIA
Zirconium là một trong những nguyên tố phong phú nhất trong vỏ trái đất. Zirconia là oxit của kim loại zirconi (ZrO 2). Zirconium oxit là một loại SỨ oxit tinh thể màu trắng với các đặc tính riêng biệt. Dạng tự nhiên nhất của nó là khoáng chất hiếm, baddeleyite.
Quá trình biến đổi rắn
Nó có độ bền cao nhất trong số các loại sứ nha khoa vì mức độ chống nứt vỡ cao. Điều này có thể thực hiện được là do đặc tính độc đáo của zirconia, nó phải trải qua một quá trình được gọi là quá trình biến đổi rắn. Dạng zirconia ổn định là dạng monoclinic. Khi zirconia được làm nóng, nó chuyển sang giai đoạn nhiệt độ cao tetragonal và một lần nữa trở lại dạng mono khi làm lạnh. Tuy nhiên, việc bổ sung oxit yttrium (3–5%) giúp ổn định zirconia ở dạng tetragonal nhiệt độ cao ở nhiệt độ phòng. Do đó, dạng zirconia này được gọi là ‘ zirconia đa tinh thể ổn định bằng yttria’.
Sự thêm vào các thành phần nhỏ như yttrium có thể tạo ra một tinh thể vừa cứng vừa kháng gãy vì quá trình biến đổi rắn diễn ra khi zirconia đi từ dạng tetragonal sang monothithic. Dạng monolithic này giúp kháng lại sự gãy khi dùng trong phục hồi toàn sứ.

Khi một ứng suất được tác động lên zirconia như khi bắt đầu hình thành vết nứt, nó sẽ trở lại dạng mono cục bộ với sự gia tăng thể tích kèm theo. Sự gia tăng cục bộ về thể tích tạo ra ứng suất nén xung quanh vết nứt và làm chậm sự phát triển của nó. Đây còn được gọi là ‘sự giãn nở lực căng’ – một hiện tượng chỉ được biết đến trong trường hợp thép. Vì lý do này, oxit zirconium còn được gọi là “thép sứ”.
Sự ra đời của zirconia như một vật liệu làm sườn đã cách mạng hóa sứ nha khoa. Quá trình biến đổi rắn riêng biệt của nó, giúp nó có thể tạo ra những mão răng cố định trong khoảng thời gian tương đối dài ở cả vị trí phía trước và phía sau.
Thành phần

Có sẵn ở dạng
Các loại phôi có kích thước và hình dạng khác nhau. Cả hai hình thức thiêu kết và tiền thiêu kết đều có sẵn. Tiền thiêu kết là dạng thiêu kết một phần và dễ tiện hơn. Sau khi tiện, các lab nha khoa hoàn thành quá trình thiêu kết để đạt được mật độ đầy đủ. Các phôi có thể có một màu duy nhất, trong trường hợp đó các nhà sản xuất cung cấp chất lỏng tạo màu đặc biệt để nhúng hoặc sơn. Một số nhà sản xuất cung cấp phôi với các sắc thái khác nhau (phôi màu).
Thành phần của zirconia
Zirconia nha khoa là một vật liệu cực kỳ cứng, đặc, và rất đục.
Mật độ: 9 g/cm3
Điểm nóng chảy: 2715 °C
Chỉ số khúc xạ: 2.13
Tan trong: Hydrofluoric acid và sulfuric acid nóng.
Độ bền uốn: 900 tới 1200 MPa
MOE: 210 GPA
CTE : 10.5 × 10–6/ °C
Tính thẩm mỹ: So với phục hình PFM, phục hình sườn zirconia có tính thẩm mỹ cao hơn vì loại bỏ kim loại. Tuy nhiên, khi so sánh với các vật liệu khác trong mờ hơn như lithium disilicate, zirconia có vẻ ít trong mờ hơn và không trong suốt hơn. Độ trong mờ cao hơn sẽ cho phép nhiều ánh sáng hơn vào phục hình, và nếu được sử dụng kết hợp với xi măng trong, thường có thể đạt được vẻ ngoài giống như thật hơn. Độ trong mờ thấp hơn là do hàm lượng tinh thể cao hơn. Khi có độ dày bằng nhau, zirconia trong mờ nhất chỉ mờ bằng 73% so với disilicat lithium thông thường. Zirconia là một vật liệu rất mạnh có thể hỗ trợ FDP. Tuy nhiên, sự sứt mẻ của sứ phủ bề mặt đã được báo cáo, đặc biệt là ở vùng răng cối. Trong một số nghiên cứu đã được công bố, tỷ lệ sứt mẻ là khoảng 15% sau 3 đến 5 năm. Sự sứt mẻ khác nhau giữa các nhà sản xuất sứ phủ khác nhau. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đã chỉ ra rằng sứ nung chảy thấp có thể kém chống nứt hơn sứ nung chảy cao và mật độ sứ thấp hơn. Zirconia là một chất cách nhiệt tốt, ngăn chặn sự truyền nhiệt đến sứ phủ, ngăn không cho nó trở nên đặc hoàn toàn dù nung nhanh hay nung ở nhiệt độ thấp. Ngoài ra, việc làm nguội nhanh có thể tạo ra ứng suất trong sứ, có thể dẫn đến nứt. Bất kỳ điều chỉnh bề mặt nào, chẳng hạn như mài, phun cát, và thậm chí đánh bóng, có thể thay đổi phase trên bề mặt của zirconia và có thể ảnh hưởng đến độ ổn định và độ bền của zirconia cũng như sứ veneer.
Gãy zirconia: Đôi khi, sự gãy toàn bộ của lõi zirconia đã được quan sát thấy, đặc biệt là ở vùng răng cối thứ hai và trên các implant ở vùng sau. Việc mài quá nhiều hoặc thô có thể gây ra các vết nứt, xâm nhập vào cấu trúc nền zirconia, gây ra sự biến đổi mà ban đầu có thể giữ các vết nứt này đóng lại. Tuy nhiên, theo thời gian tiếp xúc với môi trường miệng và sự đảo ngược của ứng suất biến đổi, các vết nứt có thể bắt đầu lan rộng. Hơn nữa, nhiều “zirconias có độ trong suốt cao” có lượng alumin thấp, đây là một chất ổn định quan trọng. Lượng alumin thấp hơn có thể gây biến đổi quá mức, nứt và mài mòn răng; tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng được kỳ vọng sẽ cung cấp một câu trả lời chắc chắn hơn
Mòn răng đối diện: Các nghiên cứu sử dụng răng tự nhiên đã chỉ ra rằng zirconia gây mòn quá mức cấu trúc răng tự nhiên. Chỉ tráng men là không đủ vì lớp men bị mòn đi để lộ bề mặt thô ráp bên dưới. Đánh bóng, cộng với tráng men được khuyến khích hiện nay để giảm mài mòn răng tự nhiên.
ZIRCONIA ALUMINA CERAMICS ĐƯỢC ỔN ĐỊNH BẰNG CERIA
Nanocomposite zirconia-alumin ổn định Ceria (ZrO2 / Al2O3) (Ce-TZP / A) gần đây đã xuất hiện và thậm chí còn được khẳng định là vượt trội hơn Y-TZP trong ứng dụng lâm sàng. Ôxít xeri (CeO2), còn được gọi là ôxít xeri, xeri, hoặc xeri điôxít, là một ôxít của xeri kim loại đất hiếm. Phương thức hoạt động của nó tương tự như của yttria.
2.5.4. ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA SỨ CAD/CAM
Ưu điểm
1. Thời gian chờ đợi ít hơn. Trong một số trường hợp, có thể phục hình trong ngày.
2. Sứ mạnh hơn. Sứ tiện cứng hơn.
3. Trong một số hệ thống, quá trình quét được thực hiện trực tiếp trong miệng nên không cần phải lấy dấu.
4. Độ xốp giảm, do đó sức bền lớn hơn.
5. Một lần thăm khám (chỉ trong các hệ thống máy chế tạo mão toàn phần với quá trình xử lý tiếp theo tối thiểu. Các phục hình CAD / CAM sử dụng sườn sứ, quá trình xử lý tiếp theo như thiêu kết hoặc thấm thủy tinh, tráng men, phân lớp, v.v., đòi hỏi nhiều thời gian hơn).
6. Thiết bị lab có thể được giảm thiểu vì không cần thiết bị liên quan đến đúc và gia công kim loại.
7. Khả năng sao chép hình dạng ban đầu của răng tạo ra các phục hình giống răng gốc.
Nhược điểm
1. Thiết bị đắt tiền.
2. Scan cùi răng là kỹ thuật nhạy cảm.
3. Vẫn không mạnh bằng phục hình PFM.
4. Vấn đề sứt mẻ của gốm veneering trong trường hợp sườn sứ zirconium.
Nguồn: Manappallil, J. J. (2016). Basic dental materials. Jaypee.