1. Côn Gutta percha
Vật liệu được sử dụng rộng rãi nhất để trám bít chân răng sau là dùng các côn Gutta percha với kỹ thuật lèn ngang hoặc dọc (Hình 10.1). Các côn Gutta percha này thường được làm ấm bằng plugger, đặt côn chính trước, tiếp theo là các côn phụ cần thiết để hoàn thành quá trình trám bít.

Gutta percha đáp ứng hầu hết các yêu cầu đối với vật liệu lý tưởng, là vật liệu được lựa chọn cho ứng dụng lâm sàng này. Nó được coi là chất bán rắn và có khả năng được nén vào các ống tủy có hình dạng không đều bằng cách sử dụng kỹ thuật lèn ngang hoặc lèn dọc. Gutta percha có kích thước ổn định và tương thích sinh học khi tiếp xúc với mô chóp. Nó trở thành nhựa khi đun nóng đến khoảng 60°C và khi có mặt một số dung môi nhất định, chẳng hạn như xylene, chloroform hoặc dầu khuynh diệp. Nó không phải là chất cản quang tự nhiên mà được tạo ra bằng cách pha chế với chất độn vô cơ thích hợp, chẳng hạn như bari sunfat. Ngoài ra, nó có đủ tính toàn vẹn để cho phép lấy ra khỏi ống tủy trong những trường hợp cần thiết.
Do đặc tính dẻo nhiệt nên gutta percha không thể khử trùng bằng cách đun nóng. Thay vào đó, khi cần khử trùng, nên sử dụng dung dịch natri hypoclorit loãng (thường là 5%).
Gutta percha được lấy từ nhựa cây thuộc họ Sapotaceae, chủ yếu là Pallaquium gutta. Những cây này xuất hiện chủ yếu ở quần đảo Malaysia và Indonesia. Vật liệu thu được bằng cách đông tụ nhựa của chúng đã được cư dân trên quần đảo Malaysia sử dụng từ nhiều thế kỷ trước để chế tạo các đồ vật như chuôi dao và gậy. Được giới thiệu đến phương Tây bởi John Tradescant vào thế kỷ 17, vật liệu này đã được dùng để trám bít ống tủy bởi Tiến sĩ G.R. Bowman, một bác sĩ lâm sàng đến từ Missouri, vào năm 1867. Việc sản xuất thương mại các côn Gutta percha cho nội nha bắt đầu vào năm 1887, khi Công ty S.S. White giới thiệu các sản phẩm này. Tuy nhiên, phải đến năm 1959, khái niệm sử dụng dụng cụ sửa soạn tiêu chuẩn kết hợp với các côn Gutta percha có kích thước tiêu chuẩn mới được đề xuất. Điều này xảy ra tại Hội nghị Nội nha Quốc tế lần thứ hai, được tổ chức tại Philadelphia, và bắt đầu từ đây, một loạt các trâm và côn nội nha tiêu chuẩn đã có sẵn. Các loại côn Gutta percha hiện được cung cấp, bao gồm cả côn lõi rắn, phiên bản nén nhiệt và thuốc.
Nhựa để tạo ra gutta percha được thu thập bằng cách khai thác từ thân cây. Điều này bao gồm việc thực hiện các vết cắt hình chữ V hoặc đồng tâm và để nhựa chảy vào cốc. Sau đó, gutta percha được tinh chế bằng một loạt các bước phức tạp liên quan đến quá trình đông tụ và tinh chế để tạo ra gutta percha ‘siêu tinh khiết cuối cùng’ có thể được tạo thành sản phẩm để sử dụng trong nội nha.
Cấu trúc và thành phần của gutta percha dùng trong nội nha
Gutta percha chủ yếu bao gồm polyme trans-1,4-isoprene (Hình 10.2). Nó là một đồng phân cấu trúc của cao su tự nhiên, là cis-1,4-polyisoprene, và cấu trúc của gutta percha cho nó có độ đồng nhất cao hơn và kết tinh dễ dàng hơn cao su tự nhiên. Những đặc điểm này có nghĩa là gutta percha cứng hơn, ít dai hơn và giòn hơn so với đồng phân cấu trúc của nó.

Ở nhiệt độ phòng, gutta percha là một vật liệu cứng, nhưng nó hơi mềm ở 25-30°C và thường trở nên mềm dẻo và có khả năng định hình ống tủy khi làm nóng trên nhiệt độ này. Gutta percha thay đổi đặc tính của nó khi thoái hóa, trở nên giòn hơn và kém đàn hồi hơn do quá trình oxy hóa. Để duy trì các đặc tính của nó và làm chậm mọi tác động của thoái hóa, gutta percha nên được bảo quản ở nơi mát mẻ và tránh ánh sáng trước khi sử dụng.
Để sử dụng trong nội nha, gutta percha được bào chế để bao gồm các thành phần khác ngoài thành phần polyme của nó. Chúng bao gồm sáp và nhựa, cũng như các chất độn vô cơ mịn (oxit kẽm và điển hình là bari sunfat). Kẽm oxit được thêm vào làm chất độn gia cố nhằm mục đích cải thiện độ bền và độ cứng của vật liệu. Bari sunfat, nếu có mặt, là để tăng độ cản quang, mặc dù các chất cản quang khác có thể được sử dụng ở các nhãn hiệu khác. Một lượng nhỏ chất chống oxy hóa cũng có thể có mặt. Thành phần điển hình được thể hiện trong Bảng 10.1.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng thành phần của các côn Gutta percha khác nhau giữa các nhà sản xuất. Đặc biệt, tỷ lệ của chất độn gutta percha polymer và oxit kẽm có thể khác nhau rất nhiều. Những khác biệt này có thể dẫn đến sự khác biệt về tính chất cơ học cũng như độ chảy do nhiệt giữa các nhãn hiệu độc quyền khác nhau.
2. Sealer trám bít ống tủy
Bản thân các côn nội nha không đủ để tạo ra seal vững chắc ở một răng đã được lấy tủy. Do đó, cần phải sử dụng một số loại sealer. Chất này được sử dụng như một loại keo dán có độ nhớt cao, và trong khi có thể chảy, nó có thể khít với thành ống tủy và côn trám bít để tạo ra một seal để ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn. Sealer đông bằng một số loại phản ứng hóa học để tạo ra chất rắn cứng vẫn giữ nguyên vị trí và cung cấp một lớp bịt kín liên tục để ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn.
Vật liệu trám bít không thể được sử dụng riêng lẻ để trám bít ống tuỷ vì quá trình đông thường dẫn đến sự co rút. Sự co như vậy được giảm thiểu nhờ có côn bán đặc. Tuy nhiên, thực tế là sự co ngót xảy ra đã ngăn cản sealer tạo ra một lớp bịt kín hoàn toàn không thấm nước. Ngoài ra, việc trộn các sealer như vậy có xu hướng kết hợp không khí, có nghĩa là vật liệu đông có chứa các khoảng trống mà qua đó có thể xảy ra rò rỉ. Việc thiếu rào cản cơ học dẫn đến sealer lý tưởng nhất phải có một số đặc tính chống vi khuẩn (để bù đắp cho sự thiếu rào cản cơ học đó – admin). Sự kết hợp của một rào cản chưa hoàn thiện với đặc tính chống vi khuẩn cho phép sealer thực hiện chức năng lâm sàng của nó là duy trì buồng tủy trống trong điều kiện vô trùng có thể chấp nhận được.
Cần lưu ý rằng khả năng chỉ sử dụng một trong các vật liệu (ví dụ, gutta percha hoặc sealer) đã được xem xét cho liệu pháp nội nha. Khái niệm này được gọi là ‘monoblock’. Tuy nhiên vẫn chưa thể chứng minh được khả năng phát triển phương pháp này để sử dụng thực tế. Chỉ gutta percha hoặc sealer không thể tạo ra một seal đủ độ chắc chắn hoặc độ bền để mang lại kết quả lâm sàng có thể chấp nhận được.
Sealer hiện có sẵn trong ngành với nhiều loại hóa chất khác nhau, như trình bày trong Bảng 10.2. Một số nhãn hiệu hiện tại của từng loại cũng được liệt kê. Những vật liệu này được mô tả trong các phần sau của chương này. Các tính năng cơ bản của một số trong số chúng đã được mô tả trong các chương khác và những chi tiết này không được lặp lại. Đúng hơn, những gì tiếp theo nhấn mạnh việc ứng dụng những vật liệu này làm chất trám bít nội nha.

2.1. Kẽm oxit-eugenol
Kẽm oxit-eugenol là một vật liệu hơi lỗi thời nhưng nó được sử dụng rộng rãi như một sealer nội nha. Nó có đặc tính cơ học tương đối kém, nhưng dễ sử dụng và kết quả rất tốt, điều này giải thích cho sự phổ biến ngày càng tăng. Khi đông, nó tương thích sinh học với các mô cứng của răng, mặc dù gây độc tế bào đối với các mô mềm. Kẽm oxit-eugenol dễ bị thủy phân, khiến vật liệu bị phân hủy và giải phóng eugenol. Chính chất này là nguyên nhân gây ra tác dụng phụ của xi măng đối với các mô mềm, nhưng cũng là chất có tác dụng diệt khuẩn.
Kẽm oxit-eugenol là một loại xi măng axit-bazơ, được hình thành bằng phản ứng của eugenol với bột oxit kẽm. Chất nền của xi măng là một chất chelate bao gồm kẽm eugenolate. Để phản ứng này xảy ra thì cần ít nhất một lượng nước.
Eugenol là một loại phenol và có tính axit yếu. Tên hóa học của nó là 4-allyl-2-methoxy phenol và nó có cấu trúc như trong Hình 10.3. Giống như tất cả các axit, nó chỉ có thể biểu hiện tính chất axit khi có nước. Về nguyên tắc, hỗn hợp oxit kẽm với eugenol có thể thu được nước từ độ ẩm có trong miệng nhưng trên thực tế, nếu làm như vậy, nó đông kết chậm. Để thu được xi măng có đặc tính đông kết nhanh và đáng tin cậy hơn, một lượng nhỏ chất xúc tác được thêm. Một số chất đã được chứng minh là có khả năng đẩy nhanh phản ứng đông kết của xi măng oxit kẽm-eugenol và những chất này có thể được thêm vào chất lỏng eugenol hoặc vào bột oxit kẽm. Chế phẩm ban đầu được cho là có thể chấp nhận được về mặt lâm sàng và đã tồn tại hơn 70 năm, được gọi là sealer Grossman theo tên người phát minh ra nó, và chế phẩm này có chứa một lượng nhỏ natri borat trong bột gốc oxit kẽm làm chất xúc tác (Bảng 10.3) .


Các nhãn hiệu kẽm oxit-eugenol độc quyền hiện nay có thể chứa nhiều loại chất xúc tác thay thế. Axit axetic (0,1-2%) có thể có trong eugenol và một số loại muối kẽm, chẳng hạn như kẽm propionate, kẽm succinate hoặc kẽm axetat được trộn với oxit kẽm. Những sự kết hợp này tạo ra xi măng đông nhanh hơn, và một phần hiệu quả của những chất xúc tác này phát sinh từ tính chất ưa nước cao của chúng, khiến cho xi măng mới trộn dễ dàng hấp thụ nước từ môi trường xung quanh. Nước đã được chứng minh là thành phần thiết yếu của hỗn hợp phản ứng và do đó độ ẩm môi trường xung quanh cao sẽ cải thiện tốc độ đông.
Oxit kẽm được sử dụng trong xi măng oxit kẽm-eugenol không phải là chất không hoạt động được sử dụng trong xi măng kẽm photphat. Thay vào đó, nó cần phải có khả năng phản ứng cao nhất có thể, trạng thái đạt được bằng cách bỏ qua giai đoạn xử lý nhiệt trong quá trình sản xuất và đảm bảo rằng kích thước hạt càng mịn càng tốt.
Xi măng kẽm oxit-eugenol có tính cơ học yếu, cường độ nén trong khoảng 13-38 MPA ở 24h. Thời gian đông kết khá nhanh, dao động từ 4 đến 14 phút, tùy thuộc vào chi tiết của công thức. Xi măng thu được có đặc tính dẻo ở mức độ đáng kể và, vì lý do này, có thể tạo ra một lớp seal tốt ở chóp chân răng, mặc dù có độ co cao. Những loại xi măng này cũng có đặc tính diệt khuẩn tốt, đây là một lợi ích nữa khi chúng được sử dụng làm chất trám bít nội nha. Tuy nhiên, chúng sẽ gây kích ứng đối với các mô quanh chóp nếu bị đẩy ra ngoài chóp răng và khi điều này xảy ra, phản ứng có thể nghiêm trọng đến mức phải cắt bỏ chóp răng.
Nhìn chung, mặc dù không có những đặc tính hoàn toàn lý tưởng làm sealer nhưng kẽm oxit-eugenol là một vật liệu hiệu quả. Nhiều năm sử dụng lâm sàng thỏa đáng của nó đã chứng minh điều này và kết quả nhìn chung là tốt. Có rất ít nghiên cứu gần đây về sealer nội nha kẽm oxit-eugenol, điều này phản ánh thực tế rằng nó là một vật liệu được công nhận với thành tích đã được chứng minh. Nó vẫn là một trong những vật liệu được sử dụng rộng rãi nhất để trám bít nội nha và có thể sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai gần.
2.2. Xi măng canxi hydroxit
Như đã mô tả trong Chương 9, ứng dụng chính của canxi hydroxit là làm vật liệu che tủy. Nó cũng được sử dụng như một loại thuốc đặt trong ống tuỷ và trong một số thủ thuật tạo chóp. Ngoài ra, sau những nghiên cứu tiên phong vào cuối những năm 1970, nó cũng đã được sử dụng như thành phần hoạt tính chính của một nhóm sealer độc quyền.
Vật liệu canxi hydroxit có một số ưu điểm khi được sử dụng trong ứng dụng này. Độ pH cao khiến chúng có tính kháng khuẩn và cũng thúc đẩy quá trình sửa chữa xung quanh sealer thông qua quá trình vôi hóa và kích thích phát triển mô cứng. Sealer canxi hydroxit cần duy trì mức độ toàn vẹn cao để giữ nguyên vị trí trong thời gian cần thiết và lý tưởng nhất là không bị phân hủy tại chỗ. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy chúng không phải lúc nào cũng có thể đáp ứng được yêu cầu này và các nghiên cứu đã chỉ ra mức độ phân hủy đáng kể của các vật liệu này. Ngoài ra còn có một câu hỏi quan trọng liên quan đến mối quan hệ giữa tính ổn định tại chỗ và sự rửa trôi các ion canxi và hydroxyl. Ion canxi và hydroxyl cần thiết để vừa nâng cao độ pH tại chỗ vừa thúc đẩy quá trình tái tạo mô cứng, nói cách khác là mang lại lợi ích điều trị.
Rò rỉ xung quanh sealer canxi hydroxit đã được nghiên cứu thực nghiệm và kết quả nhìn chung là thỏa đáng. Tuy nhiên, đã có một số báo cáo bất lợi, và những biến thể này được cho là do sự khác biệt quan trọng trong phương pháp thực nghiệm. Sự rò rỉ dường như có liên quan đến cả độ hòa tan của vật liệu và độ bám dính đáng ngờ đối với cả thành ngà răng và côn gutta percha. Ví dụ, sealer canxi hydroxit Apexit được phát hiện là có độ hòa tan cao khi so sánh với các loại sealer nội nha khác và, trong một số nghiên cứu, các hạt sealer đã được tìm thấy trong các mô ở khoảng cách đáng kể so với mẫu.
Ưu điểm đặc biệt của sealer canxi hydroxit là tính chất chống vi khuẩn, một tính năng liên quan đến độ pH cao của chúng. Một số nghiên cứu in vitro đã chứng minh rằng chúng cho thấy hoạt động chống vi khuẩn đáng kể. Mặc dù có đặc tính diệt khuẩn nhưng những vật liệu này ít độc hơn so với sealer oxit-eugenol kẽm đối với các tế bào dây chằng nha chu của người.
Các tính chất vật lý của vật liệu canxi hydroxit được chấp nhận để sử dụng làm chất trám bít nội nha. Chúng chảy tốt ở trạng thái chưa đông, do đó có thể tiếp cận và bịt kín lỗ chóp của răng bị ảnh hưởng, đồng thời cũng thích ứng với hình dạng bất thường của thành ngà.
Vật liệu canxi hydroxit có thời gian đông thay đổi. Ví dụ: Apexit đông kết trong khoảng 2 giờ ở độ ẩm tương đối 100%, trong khi Sealapex mất 2-3 tuần để đông kết trong cùng điều kiện. Vật liệu đông có độ ổn định kích thước tốt, mặc dù chúng có khả năng giãn nở ở độ ẩm cao, điều này có thể thúc đẩy khả năng bịt kín tốt.
Nhìn chung, vật liệu canxi hydroxit có vẻ phù hợp làm sealer nội nha trên lâm sàng, mặc dù chúng không nổi bật trong ứng dụng này. Các thương hiệu lâu đời vẫn tiếp tục được cung cấp trên thị trường và rõ ràng nhận được sự ưu ái của một số bác sĩ. Chúng chắc chắn phải được sử dụng cẩn thận, và đặc biệt là tất cả độ ẩm phải được loại bỏ khỏi ống tủy bằng cách sử dụng các côn giấy. Bất kỳ dấu vết nào của hơi ẩm còn sót lại sẽ đẩy nhanh quá trình đông kết của sealer canxi hydroxit, khiến nó cứng lại trong vòng vài giây, do đó khiến việc lèn các côn Gutta percha là không thể.
2.3. Xi măng glass-ionomer
Bản chất cơ bản của glass ionomer thông thường đã được đề cập chi tiết trong Chương 5. Như đã được mô tả trong chương đó, những vật liệu này trải qua phản ứng đông trong thời gian hợp lý phát sinh từ sự tấn công của bột thủy tinh bởi dung dịch nước của polyme axit. Có hai đặc điểm đặc biệt khiến chúng trở nên hấp dẫn như một sealer nội nha tiềm năng, đó là độ co thấp và khả năng tạo thành một liên kết dính thực sự với cả men răng và ngà răng. Cả hai đặc điểm này cho thấy rằng xi măng glass-ionomer sẽ tạo thành một seal tuyệt vời ở chóp răng và đó là cơ sở của chất trám bít nội nha đạt yêu cầu.
Tuy nhiên, trong thực tế, có những vấn đề cần khắc phục trước khi xi măng glass-ionomer có thể hoạt động như sealer theo cách này. Đặc biệt, cần phải cải thiện về thời gian làm việc, mà theo quan điểm thực tế trong nội nha là quá ngắn. Một phần vì thời gian đông kết ngắn nên việc vận chuyển xi măng đến chóp ở trạng thái đủ lỏng là một thách thức.
Những vấn đề này đã được khắc phục vào đầu những năm 1990 khi sản phẩm Ketac Endo được tung ra thị trường. Nó được pha chế với độ đặc của xi măng gắn, có nghĩa là nó có tỷ lệ bột và chất lỏng tương đối thấp. Điều này cho phép nó chảy vào đúng vị trí và thích ứng tốt với đường viền của ống tủy, có độ dày màng khá mỏng ở nơi cần thiết. Nó bao gồm một chất cản quang, giúp khắc phục một vấn đề khác của glass-ionomer, đó là thấu quang. Kể từ khi Ketac Endo ra mắt, các sản phẩm glass-ionomer khác dùng làm sealer nội nha đã xuất hiện trên thị trường. Chúng thường có các đặc tính vật lý hợp lý, chắc chắn tốt hơn so với xi măng kẽm oxit-eugenol và chúng ít bị phân hủy thủy phân.
Độ bám dính tốt của glass-ionomer với men răng và ngà răng đã được xác nhận đối với những loại xi măng này khi làm sealer nội nha. Tuy nhiên, bất chấp điều này, chúng có khả năng seal kém hơn so với dự đoán. Lý do cho điều này là không rõ ràng. Tuy nhiên, chúng đã được chứng minh là làm giảm sự xâm nhập của vi sinh vật vào thân răng, nơi glass-ionomer được sử dụng để bịt kín các lỗ ống tủy và cũng được đặt trên sàn buồng tủy. Do đó, chúng có khả năng duy trì răng được điều trị trong điều kiện vô trùng thích hợp.
Glass-ionomer được biết là có đặc tính chống vi khuẩn mạnh khi mới đông, một tính năng được cho là do tác động kết hợp của độ pH ban đầu thấp và khả năng giải phóng florua của chúng trong ‘vụ nổ sớm’ ngay sau khi hình thành. Những tác dụng này đã được xác nhận đối với sealer nội nha glass-ionomer, nhưng tác dụng chống vi khuẩn chỉ là nhất thời và biến mất sau 24 giờ. Điều này trái ngược với xi măng oxit-eugenol kẽm, được chứng minh là có khả năng chống vi khuẩn hoạt động trong vài ngày sau khi đông.
Kết quả lâm sàng nói chung là tốt khi sử dụng glass-ionomer làm sealer nội nha và hỗ trợ việc sử dụng glass-ionomer trong ứng dụng này. Cùng với chức năng như 1 sealer, glass-ionomer đã được báo cáo trong các ứng dụng nội nha khác. Ví dụ, các nghiên cứu in vitro về việc sử dụng chúng để sửa chữa các lỗ thủng hoặc tiêu chóp chân răng đã được công bố, mặc dù các kết quả tích cực vẫn thiếu sự hỗ trợ của các phát hiện in vivo. Tuy nhiên, từ những nghiên cứu được công bố này, có thể kết luận rằng xi măng glass-ionomer có khả năng tương thích sinh học tốt với các mô chóp và những phát hiện này hỗ trợ việc sử dụng glass-ionomer trong ứng dụng sealer.
2.4. Silicon
Sealer ống tủy gốc silicone là một biến thể của silicone polyme hóa được sử dụng làm vật liệu lấy dấu. Chúng đã được sửa đổi để cải thiện độ chảy, nhưng tính chất hóa học cơ bản của chúng là như nhau. Chúng bao gồm các hệ thống hai paste bao gồm một base và một catalyst. Các thành phần silicon là polyme polydimethylsiloxane được pha trộn với dầu parafin và chứa đầy zirconium dioxide nghiền nhỏ. Chất thứ hai này vừa tăng cường cho vật liệu silicone vừa tạo ra khả năng cản quang.
Chất trám bít nội nha gốc silicone phải được trộn ngay trước khi sử dụng và việc này được thực hiện bằng hệ thống phân phối cơ học, đảm bảo trộn hoàn toàn cả hai loại paste mà không có sự kết hợp của không khí. Ngoài ra, trong một trong các loại paste còn có một lượng nhỏ bạch kim để đóng vai trò là chất xúc tác cho phản ứng đông. Quá trình đông bao gồm các nhóm không bão hòa trên một trong các chuỗi polyme phản ứng với một nguyên tử hydro gắn trực tiếp với một nguyên tử silicon (Hình 10.4). Phản ứng dẫn đến các liên kết chéo giữa các chuỗi polysiloxane và những liên kết này làm cho vật liệu đông thành chất rắn cao su đàn hồi.

Chất trám bít nội nha bằng silicone được chế tạo với các hạt oxit zirconium có kích thước hạt rất nhỏ. Điều này có nghĩa là paste silicon chưa đông có thể đạt được độ dày màng rất mỏng, thường vào khoảng 5 µm. Điều này đảm bảo chảy tốt vào các bề mặt không đều và cũng thích ứng tốt với thành ống tủy.
Sealer nội nha bằng silicon ở trạng thái đông là vật liệu không hòa tan có độ ổn định kích thước tốt. Chúng nở ra một chút khi đông, do đó cải thiện khả năng thích ứng của chúng với thành ống tuỷ và do đó nâng cao chất lượng của sealer. Tuy nhiên, bất chấp điều này, các nghiên cứu đã gợi ý rằng seal đạt được trong các điều kiện thiết kế không tốt bằng sealer của Grossman có nền kẽm oxit-eugenol.
Các nghiên cứu đã xác nhận rằng silicon có tính tương thích sinh học ở chóp, mặc dù chúng thiếu đặc tính chống vi khuẩn. Do đó, chúng dựa vào việc cung cấp một seal chất lượng cao để ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn vào buồng tủy vô trùng.
2.5. Nhựa epoxy
Vật liệu gốc nhựa epoxy có sẵn để sử dụng làm chất trám bít nội nha. Chúng được tạo thành bằng phản ứng trùng hợp mở vòng giữa hexamethylene tetratramine (Hình 10.5) – một phần của bột, và monome nhựa bis-phenol – có trong thành phần chất lỏng. Ngoài phân tử phản ứng, bột còn chứa bismuth oxit (50%) để tạo ra cản quang và titan dioxide (5%) làm chất màu. Bột còn chứa các hạt bạc (10%) giúp chất liệu có tính kháng khuẩn.

Kết quả với sealer epoxy có vẻ tốt. Nhựa epoxy đông kết có đặc tính vật lý tốt, mang lại khả năng seal chấp nhận được với các côn Gutta percha và có khả năng chống phân hủy trong điều kiện nước. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những vật liệu này rò rỉ nhiều hơn các sealer khác, đặc biệt là so với những vật liệu nhựa dimethacrylate, có khả năng bịt kín đặc biệt tốt. Đối với sealer bằng epoxy, phần lớn rò rỉ đã được chứng minh là xảy ra giữa sealer và thành ống tủy. Điều này có thể phát sinh từ sự co rút do trùng hợp trong các vật liệu này và cũng bởi vì chúng quá kỵ nước để liên kết với thành răng.
Sealer epoxy AH26 Plus đã được chứng minh là có đặc tính chống vi khuẩn hợp lý. Trong một nghiên cứu so sánh một số loại sealer nội nha khác nhau, người ta thấy nó có hiệu quả tương đương với sealer của Grossman trong việc làm giảm số lượng tế bào Enterococcus faecalis có thể nuôi cấy được. Ngược lại, sealer canxi hydroxit Apexit và Sealapex hoàn toàn không hiệu quả trong việc giảm số lượng các tế bào này.
Một đặc tính quan trọng của chất trám bít nội nha là nó phải tương thích sinh học với các mô ở chóp răng. Sealer Epoxy không đáp ứng tốt yêu cầu này. Ví dụ, mặc dù cho kết quả hợp lý nhưng AH26 đã được chứng minh là giải phóng formaldehyde, với mức giải phóng tối đa xảy ra 2 ngày sau khi trộn. Formaldehyde phát sinh từ chất khử trùng methenamine được sử dụng trong vật liệu này. Thật không may, nó có thể trải qua quá trình thủy phân tại chỗ để tạo ra cả formaldehyde và amoniac, cả hai chất này đều có thể dẫn đến các phản ứng sinh học bất lợi ở bệnh nhân. Những phản ứng bất lợi này bao gồm dị cảm (tức là cảm giác bất thường, chẳng hạn như ngứa ran) ở dây thần kinh xương ổ. Ngược lại, AH26 Plus được cho là không gặp phải nhược điểm này, có lẽ là do những khác biệt nhỏ về thành phần chưa được giải thích trong tài liệu.
Cả AH26 và AH26 Plus đều là chất trám bít nội nha gốc epoxy đã được sử dụng trong nhiều năm. Khi cứng lại, chúng khó lấy ra, nhưng mặc dù vậy, chúng vẫn được sử dụng và nhìn chung các đặc tính của chúng có vẻ chấp nhận được nếu không muốn nói là lý tưởng cho ứng dụng này.
2.6. Sealer gốc nhựa dimethacrylate
Sealer nội nha gốc nhựa dimethacrylate có bản chất hóa học như composite. Tuy nhiên, chúng khác với nhựa composite ở chỗ chất độn không phải là thạch anh hoặc thủy tinh silicat và không mang tính thẩm mỹ. Đúng hơn, chất độn là hỗn hợp của oxit kẽm và bari sunfat, và chúng có chức năng là cải thiện độ bền, giảm độ co và tạo ra khả năng cản quang.
Sealer gốc nhựa sẽ cứng lại bằng cách trùng hợp giữa các nhóm methacrylate không bão hòa ở đầu của các phân tử monome. Những vật liệu này được cung cấp dưới dạng hệ thống hai paste, mỗi hệ thống chứa một thành phần của chất khơi mào. Việc trộn lẫn hai loại paste sẽ tạo ra sự kết hợp của các thành phần khơi mào này, kết quả là các gốc tự do được tạo ra, quá trình trùng hợp diễn ra và vật liệu kết dính.
Trong những năm qua, một số nhãn hiệu loại sealer nội nha này đã xuất hiện. Trong những năm gần đây, có hai thương hiệu được nghiên cứu rộng rãi và nhận được sự quan tâm đáng kể. Đó là EndoREZ (Ultradent Products, Utah) và Epiphany (Penton Clinic, Connecticut), mặc dù các vật liệu khác thuộc loại này cũng được thảo luận trong các ấn phẩm gần đây. Thương hiệu Epiphany đã được thiết kế đặc biệt để sử dụng kết hợp với các côn nội nha polycaprolactone được bán trên thị trường dưới tên thương hiệu Resilon. Độ bám dính tốt đạt được giữa nhựa và các côn này dẫn đến gợi ý rằng hệ thống này có thể có khả năng hoạt động hiệu quả như một khối đơn, mặc dù kết quả thực nghiệm không thực sự ủng hộ khái niệm này. Các hệ thống nhựa nội nha dựa trên nhiều loại monome chứa nhóm methacrylate và thường bao gồm một lượng đáng kể urethane dimethacrylate. Một số vật liệu này cũng có thể chứa Hema, chất có đặc tính ưa nước ở mức độ nào đó. Nói chung, bất kể công thức nào, sealer nội nha gốc nhựa đều có thể được sử dụng trong ống tủy hơi ẩm và lượng chất độn của chúng đủ thấp để chúng có thể chảy vào các bề mặt không đều, bao gồm cả ống ngà và tạo thành các đuôi nhựa.
Các nghiên cứu về khả năng bịt kín của các vật liệu này đã cho kết quả rất khác nhau. Ví dụ, một nghiên cứu đã so sánh hệ thống Epiphany/Resilon với hệ thống dựa trên AH Plus (epoxy) với gutta percha và nhận thấy độ rò rỉ của cả hai hệ thống là tương đương nhau. Ngược lại, các nghiên cứu khác đã tìm thấy sự rò rỉ trong hệ thống nhựa methacrylate ít hơn đáng kể (p<0,05). Các kết quả trái ngược nhau cũng đã được tìm thấy đối với các nghiên cứu rò rỉ vi khuẩn, với một số nghiên cứu báo cáo không có sự khác biệt giữa Epiphany/Resilon và AH Plus/gutta percha, và những nghiên cứu khác báo cáo kết quả vượt trội đối với hệ thống nhựa methacrylate. Do đó, không có sự đồng thuận về việc liệu các hệ thống này có giảm rò rỉ hay không và do thành phần của chúng cũng như khả năng thiếu liên kết của nhựa composite đã được biết đến, điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Có thể lý tưởng nhất là chúng nên được sử dụng với các tác nhân dán, mặc dù điều này sẽ khiến việc sử dụng chúng trên lâm sàng trở nên rất cồng kềnh. Ngay cả trong các y văn được xuất bản cho đến nay, rõ ràng là chúng rất nhạy cảm về mặt kỹ thuật.
Đã có một số nghiên cứu về tác dụng sinh học của chất trám bít nội nha gốc nhựa. Cũng như các loại sealer nội nha khác, các phản ứng bất lợi có thể xảy ra, bao gồm độc tính tế bào và tổn thương DNA khi các vật liệu này tiếp xúc với tế bào sơ cấp của tế bào dây chằng nha chu. Tuy nhiên, kết quả không tệ hơn so với các vật liệu như AH26 hoặc kẽm oxit- eugenol, đồng thời các phản ứng bất lợi cũng giảm dần theo thời gian khi các chất gây kích ứng không còn được tiết ra.
Những phát hiện sinh học này cho thấy rằng các sealer nội nha nền nhựa này có thể được chấp nhận để sử dụng trên lâm sàng, kết quả đã được xác nhận bằng các đánh giá lâm sàng. Trong một nghiên cứu kéo dài 5 năm với 129 bệnh nhân, kết quả cho thấy ống tủy được bít đầy đủ trong 76,66% trường hợp và ngắn trong 10,83% trường hợp. Trong 15 trường hợp (12,50%), có bằng chứng về sự tái hấp thu nhẹ của chất trám bít ở chóp trong lòng ống tủy. Những kết quả lâm sàng này cho thấy sealer gốc nhựa có thể so sánh tốt với sealer dựa trên các loại vật liệu khác và chúng phù hợp để sử dụng trong nội nha.
Nguồn: Nicholson, J., & Czarnecka, B. M. (2016). Materials for the direct restoration of teeth. Elsevier, Woodhead Publishing.
Tự học RHM
Website: https://tuhocrhm.com/
Facebook: https://www.facebook.com/tuhocrhm
Instagram: https://www.instagram.com/tuhocrhm/