1. Tư vấn trước điều trị
Các yếu tố khác nhau đóng vai trò quan trọng trong đánh giá và lập kế hoạch điều trị. Khi lên kế hoạch veneers sứ (porcelain laminate veneers – PLVs), nhiều yếu tố cần được đánh giá kỹ lưỡng trước khi bắt đầu điều trị. Những chi tiết này phải được phân tích cẩn thận để giảm thiểu những tình huống khó khăn có thể phát sinh và tránh những biến chứng sau điều trị hoặc những phàn nàn của bệnh nhân. Nhận thức của nha sĩ về một nụ cười chuẩn cần được xem xét cùng với nhu cầu, mong muốn và suy nghĩ cá nhân của bệnh nhân. Điều tối quan trọng là bệnh nhân phải được thông báo đầy đủ về các khả năng, giới hạn và tiên lượng từng trường hợp.
2. Chỉ định
Để ngăn ngừa việc mài cấu trúc răng quá mức, cần nhớ châm ngôn sau trước khi chỉ định PLV:
Mục đích của PLV là thay thế lâu dài (replace) men và ngà răng bị mất và không thay thế tạm thời (substitute) cho men và ngà
Các tình huống sau đây là chỉ định để làm PLV:
- Thay đổi hình dạng, đường viền hoặc vị trí của răng, chẳng hạn như chỉnh sửa răng hình chêm, răng xoay, vị trí không tốt cũng như đóng khe hở đường giữa
- Chỉnh sửa các khiếm khuyết cấu trúc bẩm sinh hoặc mắc phải, chẳng hạn như sâu men nhiều răng, nhiều phục hồi, gãy, chênh lệch kích thước, sinh men bất toàn, xói mòn, mài mòn và cọ mòn
- Thay đổi màu sắc đối với răng nhiễm sắc tố không đáp ứng tốt với thuốc tẩy trắng răng, chẳng hạn như răng bị nhiễm fluor, nhiễm sắc tố do tetracycline, loạn sản men và đổi màu do điều trị nội nha
- Phục hồi chức năng, tái lập các điểm tiếp xúc trên bề mặt khớp cắn và hướng dẫn răng cửa
Các tình huống sau đây không lý tưởng để đặt PLV:
- Thiếu men răng và thiếu tính toàn vẹn của cấu trúc. Sự hiện diện của men răng đảm bảo các quy trình liên kết hiệu quả hơn và cung cấp một chất nền cứng chắc lý tưởng cho veneers.
- Vị trí răng không tốt do lệch lạc. Cần mài răng để cung cấp đủ độ dày cho veneers. Do đó, răng sậm màu, nghiêng ngoài, răng bị mòn, răng bị trồi và răng cần thay đổi đường viền sẽ cần các quy trình sửa soạn xâm lấn hơn vào ngà răng. Sửa soạn như vậy làm ảnh hưởng đến cấu trúc răng và quy trình dán về lâu dài.
- Chú ý về khớp cắn. Bệnh nhân có các thói quen chức năng và các mối quan hệ không thích hợp giữa hàm trên và hàm dưới thì không phù hợp để làm PLV.
3. Đánh giá thẩm mỹ

Các tác giả khuyến nghị rằng đánh giá thẩm mỹ được thực hiện “từ toàn bộ đến từng phần” hoặc “từ ngoài vào trong”. Nha sĩ nên bắt đầu kiểm tra bằng cách đánh giá khuôn mặt của bệnh nhân, quan sát sự cân đối giữa các phần ba khác nhau của khuôn mặt và lưu ý xem có sự bất đối xứng hay không (Hình 6-1a đến 6-1c). Thêm vào dó, bác sĩ nên phân tích xem các đường tham chiếu ngang, chẳng hạn như đường nối đồng tử (Hình 6-1d), đường nối 2 chân mũi, và đường nối 2 khóe mép khi cười, có liên quan như thế nào với mặt phẳng nằm ngang. Đánh giá này rất quan trọng để đánh giá mặt phẳng răng cửa và mặt phẳng khớp cắn. Tiếp theo, nha sĩ nên xác định vị trí của đường giữa, vì nó có thể gây trở ngại cho việc thiết kế các phục hình mới. Những phân tích này chính xác hơn khi được thực hiện với sự hỗ trợ của hình ảnh và phim. Việc sử dụng Thiết kế nụ cười kỹ thuật số (Digital Smile Design) tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đánh giá và cung cấp khả năng dự đoán và tính nhất quán cho quá trình lập kế hoạch điều trị (Hình 6-1e). Phân tích phải tập trung vào:
• Vị trí ba chiều của cạnh cắn răng cửa giữa hàm trên so với mặt và môi. Đây là điểm hướng dẫn toàn bộ quá trình lập kế hoạch. Vị trí của các cạnh cắn răng cửa giữa hàm trên được quan sát khi môi bệnh nhân đang nghỉ ngơi, trong một nụ cười bình thường và một nụ cười tối đa. Các cạnh này phải được đặt ở vị trí phù hợp với các thông số thẩm mỹ đã được thiết lập. Tuy nhiên, các thông số này nên được cá nhân hóa cho từng bệnh nhân theo đặc điểm, mong muốn và mong đợi của họ. Khi có chỉ định tái lập cạnh cắn của răng cửa giữa hàm trên, điều này có thể được kiểm tra trước bằng một mock-up, được thực hiện trực tiếp trong miệng bằng cách sử dụng nhựa composite, để hướng dẫn việc đắp sáp chính xác hơn.
• Vị trí của các cạnh cắn răng cửa bên hàm trên, răng nanh, răng cối nhỏ và răng cối lớn (mặt phẳng khớp cắn hàm trên). Các cạnh cắn của răng cửa bên và răng nanh và cùng với đỉnh múi ngoài của răng cối nhỏ và răng cối lớn phải song song với môi dưới khi nó đối xứng. Trong trường hợp bệnh nhân có khuôn mặt không đối xứng hoặc mặt phẳng khớp cắn không đều, hình ảnh phải được căn chỉnh kỹ thuật số theo các tham chiếu ngang như đường nối 2 đồng tử, chân mũi và đường nối 2 khóe mép.
• Mặt phẳng nướu răng hàm trên. Chiều cao của đường viền nướu phải đối xứng, có hình dạng liên tục và song song với đường viền của môi trên và các gai nướu phải ăn khớp với các khoảng kẽ răng. Phẫu thuật nướu, đơn lẻ hoặc kết hợp với lực kéo chỉnh nha, có thể được chỉ định để điều chỉnh một số bất thường.
Trình tự tương tự phải được sử dụng để đánh giá mặt phẳng khớp cắn của hàm dưới khi cần điều trị. Sau khi đánh giá ban đầu, cần chụp ảnh lưu hồ sơ và lấy dấu trước điều trị. Mẫu chẩn đoán được gắn trên một giá khớp, và các thay đổi được thực hiện trên mẫu bằng sáp chẩn đoán (Hình 6-1f). Wax-up được chuyển đến miệng bằng khóa silicone, được thử về mặt thẩm mỹ và chức năng trong miệng.
Sau khi được sự đồng ý của bác sĩ phục hình và bệnh nhân, các mock-up này (aesthetic pre-evaluative temporaries [APTs]) được sử dụng như một hướng dẫn để mài sửa soạn cấu trúc răng, dựa trên đường viền răng cuối cùng dự định (Hình 6-1g) .
4. Mài sửa soạn răng
Về cơ bản, có hai cách tiếp cận khác nhau để sửa soạn răng cho veneers: Cách tiếp cận truyền thống, dựa trên việc tuân theo đường viền của cấu trúc răng, và APT, được hướng dẫn bởi đường viền cuối cùng đã được lên kế hoạch, với việc sử dụng khóa và mock-up. Cần sửa soạn răng tỉ mỉ để tối đa hóa tính thẩm mỹ, cải thiện khả năng chống gãy, tối ưu hóa các quy trình trong lab và duy trì sức khỏe mô mềm cho PLVs. Việc sử dụng kỹ thuật APT có thể hướng dẫn chẩn đoán, giao tiếp với bệnh nhân và kỹ thuật viên nha khoa, và việc sửa soạn răng để giúp cho kết quả cuối cùng có thể dự đoán được. Việc sử dụng các mũi khoan cắt theo chiều sâu được kiểm soát thông qua APTs đảm bảo rằng cấu trúc răng sẽ chỉ trải qua mài tối thiểu cần thiết, thậm chí có thể không cần sửa soạn ở một số khu vực nhất định, theo các mục tiêu đã định trước.
Mặc dù PLV có thể được dán với việc mài răng ít, nhưng loại phục hồi này không nên được hiểu sai như là một thủ thuật đơn giản; trên thực tế, nó thực sự đòi hỏi kỹ năng tốt. Điều quan trọng là phải làm nổi bật một số thông số (Hình 6-2):

• Mỗi răng phải được mài nhỏ phù hợp theo sự toàn vẹn về cấu trúc, vị trí trong cung răng, đường viền cuối cùng mong muốn, màu sắc, vị trí nướu và khớp cắn.
• Sửa soạn phải có độ dày đồng đều với các góc tròn.
• Đường kết thúc chamfer ở vùng cổ, và phải dễ xác định để tạo điều kiện thuận lợi cho quy trình kỹ thuật.
• Nên tránh đặt viền phục hình ở những khu vực tập trung ứng suất.
Không có sự đồng thuận trong y văn về việc có nên sửa soạn cạnh cắn hay không. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đã đánh giá tuổi thọ và mức độ thất bại của veneers trong việc có hoặc không sửa soạn cạnh cắn. Trong một nghiên cứu, việc mài răng mà không có phủ cạnh cắn (chuẩn bị cửa sổ) cho kết quả tốt hơn so với việc mài cạnh cắn. Nếu bao phủ cạnh cắn được chỉ định vì lý do khớp cắn hoặc thẩm mỹ, các nghiên cứu in-vitro đã chỉ ra rằng thiết kế bờ vai chamfer ở mặt trong làm tăng số chu kỳ hỏng do mỏi (increased the fatigue failure cycle count). Mặt khác, một nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh rằng cạnh phủ cạnh cắn có tác động tích cực đáng kể đến tỷ lệ tồn tại. Một nghiên cứu khác báo cáo rằng không có sự khác biệt đáng kể nào có thể được quan sát giữa việc có hay không bao phủ cạnh cắn.
Thiết kế sửa soạn
Không giống như sửa soạn mão có hình dạng được xác định trước nhằm cung cấp sự lưu giữ và kháng lực, sửa soạn PLV là không lưu giữ và hoàn toàn được quyết định bởi wax-up chuẩn đoán. Do đó, không có thiết kế lý tưởng và việc mài răng (nếu cần) bị ảnh hưởng bởi mục tiêu thẩm mỹ, khớp cắn và chức năng, cân nhắc nội nha và nha chu, lượng chất nền răng còn lại, miếng trám hiện có, hình thái và sự sắp xếp của răng, lựa chọn sứ và mong muốn của bệnh nhân.
Có bốn mặt cần xem xét đối với việc sửa soạn PLV:
• Buccal (mặt ngoài) – giữ lại ⅔ đến ¾ men để duy trì độ cứng của men, các ĐHT nằm trong men, vùng cổ mài 0,4mm, và phần mặt còn lại hạ 0,7 mm;
• Cạnh cắn
Window – bảo tồn, kém thẩm mỹ; Feather-edge – bảo tồn, mẻ ở cạnh cắn, kém thẩm mỹ; incisal wrap (có chamfer, bevel hoặc butt joint mặt trong) – xâm lấn, tính thẩm mỹ vượt trội, yêu cầu khoảng hở khớp cắn 1 mm, cho phép làm dài răng (đặc biệt là sau mòn răng);

• Cổ – lý tưởng là trong men răng, trên nướu hoặc dưới nướu để che đi sự đổi màu và che giao diện sứ / răng;
• Điểm tiếp xúc – giữ lại hoặc loại bỏ các điểm tiếp xúc tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng và mục tiêu điều trị.
Quá trình mài PLV nên có các đường hoàn thiện được xác định rõ ràng, bề mặt nhám mịn, đường viền cong không có đường cắt và không gian đủ rộng để có đủ độ dày sứ phù hợp để tăng cường độ bền và ngăn chặn việc phục hình quá phồn. Nếu việc sửa soạn là không cần thiết, bất kỳ lớp men nào cũng phải được làm nhám bằng kỹ thuật mài mòn vi mô để tăng cường độ bền liên kết trước khi dán veneers bằng tác nhân dán ngà (dentine bonding agents – DBA). Vật liệu trám composite có thể làm giảm độ bền liên kết và có thể yêu cầu thay thế trước hoặc trong quá trình gắn xi măng.
Hướng dẫn sửa soạn
Wax-up chẩn đoán là điểm khởi đầu cho mài sửa soạn PLV. Nó cho phép hình dung 3-D về kết quả và được ưu tiên hơn các phần mềm tạo hình ảnh 2-D. Ngoài ra, wax-up có thể coi như một mẫu cho khóa silicone (để hướng dẫn mài răng), một máng ép trong suốt hoặc ma trận nhựa nhiệt dẻo (cho mock-up trong miệng và lớp phủ tạm thời) và hướng dẫn chế tạo veneers sứ sau cùng. Nhiều phương pháp đã được đề xuất để sửa soạn răng bao gồm freehand, hướng dẫn với khóa silicone và cắt thông qua mô phỏng mock-up. Phương pháp chính xác nhất là sử dụng các khóa silicone, được cắt theo nhiều mặt phẳng, để định hướng và giảm thiểu việc mài răng không có chủ đích. Mài răng được thực hiện bằng cách đặt các vết cắt sâu bằng cách sử dụng các mũi khoan kim cương tròn có đường kính khác nhau. Các vết cắt theo chiều sâu được thực hiện bằng cách sử dụng các mũi khoan trụ có đầu 1350, và được làm láng bằng mũi khoan tungsten carbide. Sửa soạn phải tạo độ cong của răng ở tất cả các mặt phẳng (gần xa, trên dưới) để đảm bảo độ dày đều, được định trước của sứ. Nếu được yêu cầu, các tiếp điểm tiếp xúc được loại bỏ bằng đĩa kim cương. Để tránh bị rách rìa nướu hoặc gai nướu, gai nướu được bảo vệ bằng dụng cụ nhựa phẳng hoặc dụng cụ bảo vệ nướu Zekrya. Nếu ngà bị lộ ra ngoài, thì nên dùng DBA bảo vệ ngà ngay lập tức (immediate dentine sealing – IDS) trước khi lấy dấu hoặc chế tác các phục hình tạm.

5. Lấy dấu
Sau khi hoàn thành việc sửa soạn răng, nên lấy dấu toàn hàm bằng polyvinyl siloxan hoặc vật liệu polyether hoặc được thực hiện bằng kỹ thuật số. Quản lý mô là chìa khóa, và chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng chỉ co nướu có đường kính nhỏ để nhẹ nhàng làm lộ các đường viền. Dấu Alginate có thể được lấy cho các phục hình tạm và hàm đối diện.
6. Lấy dấu cắn
Nếu bệnh nhân không có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào liên quan đến rối loạn khớp cắn hoặc khớp thái dương hàm, thì mẫu có thể đặt ở vị trí khớp cắn trung tâm hoặc khớp cắn tối đa. Trong hầu hết các trường hợp PLVs được thực hiện để giải quyết các vấn đề về thẩm mỹ, chỉ có răng trước hàm trên mới được điều trị bằng PLVs; bởi vì mài răng chỉ giới hạn ở mặt ngoài, hầu như tất cả các răng sẽ tiếp xúc khi hai mẫu hàm được tiếp xúc với nhau. Các mẫu hàm sau đó được gắn trên giá khớp bằng cách sử dụng một cung mặt song song với một đường tham chiếu ngang đáng tin cậy trên mặt. Trong các trường hợp lấy dấu kỹ thuật số, mối quan hệ 2 hàm cũng có thể được đánh giá bằng kỹ thuật số.

7. Phục hình tạm
Tùy thuộc vào mức độ mài răng, có thể không cần thực hiện phục hình tạm. Bất cứ khi nào cần thiết, chúng có thể được tạo trực tiếp trong miệng, sử dụng khóa silicone lấy từ mẫu wax-up chẩn đoán và nhựa bisacrylic, hoặc gián tiếp trên mẫu hàm trong lab, sử dụng nhựa acrylic hoặc bisacrylic. Điều quan trọng là các phục hình tạm phải có đường nét thích hợp để bệnh nhân có thể trải nghiệm “nụ cười mới” và cho phép vệ sinh vùng đó đầy đủ (xem Hình 6-1g).
8. Thử sứ
Sau khi phục hình tạm, xi măng và chất kết dính còn sót lại được lấy đi, những chiếc răng đã sửa soạn được làm sạch bằng pumice và nước. Các PLV phải được kiểm tra, riêng lẻ và cùng nhau, để đánh giá độ khít sát, đường viền, điểm tiếp xúc bên và màu sắc của chúng. Việc sử dụng try-in pastes giúp giữ nguyên vị trí các veneers và cho phép bác sĩ lâm sàng đánh giá độ phù hợp của màu sắc. Nếu có thể, tốt nhất nên thực hiện try-in này mà không cần gây tê để bệnh nhân giữ lại cảm giác để cảm nhận mối quan hệ của veneers với môi và mặt.

9. Gắn xi măng
Sau khi PLVs được chấp thuận, chỉ co nướu đường kính nhỏ phải được luồn vào nướu để làm co rút viền nướu, ngăn cản dòng chảy của dịch mô và ngăn dòng chảy của xi măng đến khe nướu.
Chuẩn bị veneer
Bề mặt intaglio của veneers phải được xoi mòn theo thông số kỹ thuật của nhà sản xuất. Stangel và cộng sự đề xuất thời gian ăn mòn tối ưu là 2,5 phút, sử dụng axit flohydric 20% (HF); tuy nhiên, sứ có thể được xoi mòn với 9% đến 10% HF trong 60 đến 120 giây, tùy thuộc vào nồng độ của chất ăn mòn và chế tạo của phục hình sứ. Tốc độ của phản ứng HF trên sứ cũng phụ thuộc vào tình trạng của bề mặt; Các bề mặt tráng men hoặc những bề mặt được đúc trên platinum foil thì rất mịn (yêu cầu xoi mòn trong khoảng 4 đến 5 phút), trong khi các bề mặt được đúc trên lining và sau đó được mài mòn bởi các hạt trong không khí sẽ cung cấp diện tích tiếp xúc rộng hơn cho axit. Sứ gia cố leucite và lithium disilicate nên được xoi mòn với 10% HF tương ứng trong 60 và 20 giây. Porcelain và sứ thủy tinh có bề mặt có độ lưu giữ cao sau khi xoi mòn với HF, thích hợp để gắn xi măng nhựa.
Sau khi xoi mòn axit, bề mặt được rửa sạch và làm khô; tuy nhiên, các nghiên cứu bằng kính hiển vi điện tử quét đã chỉ ra rằng ngay cả sau khi bề mặt xoi mòn được rửa bằng nhiều nước, một số lượng lớn các tinh thể axit vẫn lắng đọng trên bề mặt, điều này có thể ảnh hưởng đến độ bền của liên kết. Để loại bỏ các tinh thể này, các veneers nên được đưa vào máy làm sạch bằng sóng siêu âm. Sau khi làm sạch bằng sóng siêu âm, các lỗ xốp lộ ra và sự xâm nhập của chất dán trong các lỗ xốp này tạo điều kiện cho việc kết dính. Độ bền liên kết tuyệt đối đã được cải thiện từ mức trung bình 600 đến 3.000 MPa bằng cách xoi mòn axit có thể được tăng thêm khi áp dụng chất kết nối silan. Chất kết nối silan là thành phần thứ hai của các phương pháp conditioning cổ điển để phục hình sứ và phải được đặt trong khoảng 60 giây. Chất kết nối này giúp duy trì bề mặt liên kết răng – sứ vì tính thấm ướt cao và góp phần hóa học vào liên kết. Sau khi có được bề mặt khô sau quá trình silan hóa, chất dán được chọn sẽ được bôi bên trong veneer bằng cọ.
Chuẩn bị bề mặt răng
Quy trình dán đòi hỏi sự tỉ mỉ đến từng chi tiết. Răng phải được làm sạch hoàn toàn sau giai đoạn thử, sử dụng pumice, nước và bàn chải Robinson ở tốc độ thấp. Sau khi một băng trong suốt được đặt để bảo vệ các răng bên cạnh, axit photphoric 37% được bôi lên vùng đã chuẩn bị trong 15 đến 20 giây trên ngà răng và trong 20 đến 60 giây trên men răng. Sau đó, răng được rửa kỹ và làm khô mà không làm mất nước của ngà. Nếu hệ thống ba bước được chọn, lớp primer được bôi trên vùng ngà răng bị hở, để nguyên trong 30 giây và làm khô nhẹ nhàng. Chất dán có thể được dán cho cả ngà răng và men răng, được làm khô và trùng hợp nhẹ theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Xi măng được lựa chọn được đặt ở mặt trong của veneer đã được chuẩn bị trước đó, veneer được đặt trên răng và quá trình phục hình được polyme hóa nhẹ trong 3 giây. Toàn bộ xi măng thừa được loại bỏ và tất cả các veneers được polyme hóa nhẹ từng răng một, trên mỗi bề mặt, trong 20 giây. Các quy trình gắn xi măng được đề cập chi tiết hơn trong chương 9.
10. Điều chỉnh khớp cắn, hoàn thiện và đánh bóng
Việc điều chỉnh khớp cắn phải được thực hiện cẩn thận, bởi vì các chuyển động ra trước rất quan trọng đối với veneers, đặc biệt là khi chiều dài cạnh cắn của răng tăng lên. Các bất thường bề mặt làm cho phục hồi dễ bị gãy; ngoài ra, độ nhám làm tăng độ mòn của răng đối diện. Veneers được thiết kế và chế tác với sự chú ý tỉ mỉ đến từng chi tiết để đạt được sự tích hợp sinh học và thẩm mỹ tuyệt vời về hình thức, kết cấu và màu sắc (Hình 6-5).

11. Yếu tố ảnh hưởng đến giao diện dán
Chất nền răng
Một số yếu tố lâm sàng có thể cản trở sự thành công của phục hình, đó là do những khác biệt trong cách mài sửa soạn răng. Các phương pháp tiếp cận truyền thống để mài veneer có thể dẫn đến việc lộ nhiều ngà răng vì độ dày sửa soạn thường gần với các độ dày men răng trung bình. Việc sửa soạn răng phải luôn ở mức tối thiểu nhất có thể vì điều này sẽ bảo tồn một lượng lớn men răng còn lại, mang lại độ bền cao hơn. Tuy nhiên, một số trường hợp phức tạp hơn tùy thuộc vào màu sắc của chất nền, loại chất nền, vị trí của răng và đường viền cần tạo. Ví dụ, răng bị thay đổi màu sắc có thể yêu cầu mài răng nhiều hơn, thường là ở ngà răng, để che đi màu sắc của chúng. Răng bị ảnh hưởng bởi sự ăn mòn, xoi mòn và mài mòn có thể chỉ có một lớp men mỏng, vì chúng đã mất đi một phần thể tích ban đầu và có thể không cho phép sửa soạn chỉ trong men răng. Tuy nhiên, sửa soạn bảo tồn hơn chắc chắn giúp bảo tồn sức sống của răng và giảm ê buốt sau thủ thuật.
Nghiên cứu trước đây đã báo cáo về sự nứt gãy của veneers dán trên răng có các phục hình bằng composite lớn. Sự hiện diện của phục hồi bằng nhựa composite có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả lâm sàng tổng thể nhưng không làm tăng sự mất đi của veneers. Mối quan hệ này phù hợp với nghiên cứu của Gürel và cộng sự, người đã quan sát thấy tỷ lệ thất bại của veneer ở răng có composite là 10,6% so với tỷ lệ thất bại là 6,6% ở răng không có composite. Việc chuẩn bị sâu hơn vào ngà răng và một chất nền có mô đun đàn hồi thấp hơn sứ dẫn đến một nền ít cứng hơn so với men răng. Cách sửa soạn này đã dẫn đến tỷ lệ gãy cao hơn so với các phương pháp phục hình được nâng đỡ bằng men khác. Do đó, độ dày ngà răng còn lại sau khi sửa soạn có thể ảnh hưởng đến tuổi thọ của phục hình. Một số báo cáo đã chứng minh rằng gãy có thể xảy ra nếu bề mặt của răng không được chuẩn bị kỹ càng để tạo khoảng trống cho build-up PLV. Mặt khác, sửa soạn sâu làm lộ ngà răng sẽ làm tăng nguy cơ bị bong tróc vi mô và gãy dán.
Bằng cách xem xét thể tích cuối cùng của phục hình sau khi chấp thuận mock-up, kỹ thuật APT tối ưu hóa việc mài răng, cho phép tỷ lệ cao hơn các quy trình mài sửa soạn được hoàn toàn nằm trên men răng (80,5%), do đó duy trì độ cứng của cấu trúc, làm giảm độ nhạy cảm sau gắn xi mang, cải thiện sự nâng đỡ của phục hình sứ, và tránh can thiệp nội nha. Nếu không có hướng dẫn này, nha sĩ sử dụng phương pháp sửa soạn tự do, thường làm lộ ngà răng và khó giữ được độ dày đồng đều. Khi PLV được thực hiện theo các hướng dẫn tối ưu đã đề cập, các vấn đề ít phổ biến nhất liên quan đến PLV là sự đổi màu vùng viền và mất độ ổn định màu vì tất cả các viền đều nằm trong khu vực dễ vệ sinh, sứ thường dễ dàng hoàn thiện và đánh bóng, và bề mặt tráng men của nó hầu như không nhiễm màu ngoại sinh.
Sửa soạn trên nướu cũng có ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ tồn tại của veneers sứ. Trong nghiên cứu này, sự tích hợp vùng viền được coi là tốt hoặc rất tốt (100%), và có ít sai sót nhỏ (1,2% – có thể là do sửa soạn nằm ở ngang nướu) điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc lấy dấu và làm sạch rìa. Những yếu tố này cũng giúp ít làm tụt nướu. Không có hiện tượng tụt nướu ở 85,7% PLV.
Vật liệu sứ
Sứ cứng với độ kháng lực trung bình đến cao, chẳng hạn như lithium disilicate glass-ceramics, cung cấp liên kết, tính thẩm mỹ và là một lựa chọn tuyệt vời hiện nay. Tuy nhiên, vì sứ kết tinh không liên kết với cấu trúc răng, chúng có thể yêu cầu các phương pháp sửa soạn xâm lấn hơn; đối với các tác giả, điều này dường như không phù hợp với triết lý của một veneer. Gần đây, việc sửa soạn veneer đã ngày càng đi theo hướng bảo tồn, với việc đúc “contact lenses”, veneers một phần hoặc fragments. Các tác giả tin rằng đây là con đường tốt hơn: sử dụng sứ cứng hơn cho phép kết dính và mang lại độ thẩm mỹ cực cao.
Xi măng nhựa
Theo dõi lâm sàng so sánh hệ thống dán self-etch và total-etch trong PLVs cho thấy một kết quả tương tự trong khoảng thời gian 5 năm, với axit photphoric đã được đặt lên men răng trong tất cả các mẫu. Dán ở ngà răng dựa trên liên kết cơ học và hóa học và đã đạt đến giá trị độ bền liên kết khoảng 14 đến 27 MPa với việc sử dụng chất dán thế hệ thứ tư. Liên kết với men về cơ bản là một liên kết cơ học ổn định hơn, và giá trị của nó được báo cáo nằm trong khoảng từ 18 đến 31 MPa. Kiểm tra các chất dán đương đại cho thấy rằng chất kết dính ba bước etch and rinse vẫn là tiêu chuẩn vàng về độ bền. Các giá trị độ trùng hợp và độ cứng của xi măng là do bản chất của xi măng (dual-, chemical-, or light-polymerizable types), độ dày và độ trong của sứ, cường độ ánh sáng, thời gian tiếp xúc và khoảng cách giữa đèn và phục hồi. Composite resin quang trùng hợp được ưa thích cho quá trình gắn xi măngveneers sứ, vì nó cung cấp thời gian làm việc lâu hơn và độ bền màu cao hơn so với hệ thống trùng hợp kép hoặc trùng hợp hóa học; tuy nhiên, quá trình trùng hợp xi măng không chính xác sẽ gây nhiễm màu, khi camphorquinone tự do vẫn còn, chứ không phải do bản chất của xi măng. Mặc dù độ dày sửa soạn thông thường cho PLV từ 0,5 đến 1,0 mm không có ảnh hưởng đáng kể đến độ cứng của composite quang trùng hợp, nhưng việc sử dụng composite trùng hợp kép có thể được ưu tiên hơn trong một số trường hợp nhất định, đặc biệt là ở sứ có nhiều lớp opaque. Việc sử dụng xi măng nhựa với các tính năng kết dính và không hòa tan không chỉ đảm bảo việc duy trì phục hình mà còn góp phần vào việc trám bít, tăng cường sức mạnh của răng và phục hình, giảm ê buốt sau thủ thuật và tạo tính thẩm mỹ cuối cùng.
Nguồn:
- Ferencz, J. L., da. Silva, Nelson Renato França Alves, & Navarro José Manuel. (2014). High-strength ceramics: Interdisciplinary perspectives. Quintessence Publishing.
- Ahmad, & Irfan. (2012). Prosthodontics at a glance. John Wiley & Sons.